Nach Genre filtern
- 198 - Thành công của tuyến đường sắt đô thị 3 Hà Nội mở đường cho những dự án khác với Pháp ?
Người dân ở Hà Nội có thêm tuyến đường sắt đô thị thứ hai trong hành trình "Giao thông nhanh cho tương lai xanh". Lễ vận hành thương mại tuyến số 3 Nhổn - ga Hà Nội đoạn trên cao được tổ chức ngày 09/11/2024 sau ba tháng mở cửa đón khách. Là dự án mang tính biểu tượng cho quan hệ Việt - Pháp, tuyến số 3 được hai bên kỳ vọng tăng cường hợp tác song phương trong những dự án tương lai về phát triển đô thị bền vững và chuyển đổi năng lượng phát thải thấp.
Tuyến đường sắt đô thị 3 Nhổn - ga Hà Nội : Biểu tượng cho hợp tác Việt - Pháp
Thành công của đoạn trên cao cũng « chứng tỏ năng lực của toàn thể đội ngũ Pháp - Việt Nam trong việc triển khai tốt các dự án hạ tầng đầy tham vọng của lĩnh vực vận tải đường sắt », theo nhận định của đại sứ Olivier Brochet khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt :
« Tuyến đường sắt đô thị số 3 thực sự là một dự án biểu tượng cho sự hợp tác Pháp-Việt vì dự án đã được khởi công từ cách đây khá lâu và đó cũng là một dự án phức tạp cần chút thời gian để hoàn thành. Việc tuyến đường được đưa vào hoạt động vào tháng 08/2024 đã được mọi người trông đợi. Chúng tôi rất vui. Trước tiên vì đây là một thành công lớn về kỹ thuật. Tuyến đường hoạt động rất tốt, chỉ trong một tháng đã có gần 1 triệu người ở Hà Nội sử dụng tàu điện. Có thể thấy là tuyến đường sắt này đã tìm được vị trí của mình. Đây là điểm đầu tiên cần phải nêu bật và chúng tôi rất vui.
Tiếp theo là những mục tiêu. Phát triển bền vững giao thông đô thị là một thách thức đối với tất cả các thành phố lớn, dĩ nhiên là đối với cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ Việt Nam muốn phát triển những loại hình giao thông đô thị một cách năng động trong những năm tới. Còn chúng tôi mong muốn làm việc với chính phủ Việt Nam bởi vì trước hết, giao thông đô thị bền vững là điều rất quan trọng cho người dân, giúp cải thiện điều kiện lưu thông, điều kiện sống hàng ngày bằng cách giảm thời gian di chuyển cho họ. Việc này cũng quan trọng đối với thành phố bởi vì đây là cách giảm ô nhiễm, giảm tắc đường. Chúng ta thấy ở Hà Nội, tình hình thường xuyên ở ngưỡng ranh giới, nhất là về mặt ô nhiễm đô thị vẫn còn rất nghiêm trọng.
Tiếp theo, tuyến tàu điện còn có vai trò quan trọng vì làm giảm khí phát thải CO2 trong giao thông vận tải. Đây là một thách thức cơ bản trong cuộc chiến chống tình trạng trái đất nóng lên. Các phương tiện giao thông, trên quy mô thế giới, chiếm gần 25% lượng khí phát thải. Trên khắp mọi nơi, người ta tìm cách làm giảm lượng khí này và cách tốt nhất là phát triển giao thông đô thị hiệu quả, hiện đại. Chúng tôi rất vui được giải quyết những thách thức này với chính phủ Việt Nam và chính quyền thành phố Hà Nội ».
Không chỉ đơn thuần là phương tiện giao thông
Ngay trong 5 ngày đầu khai thác thương mại (08-12/08), tuyến số 3 đã phá kỷ lục lượt khách trải nghiệm tuyến 2A Cát Linh - Hà Đông, thu hút gần 300.000 lượt khách, trong đó chỉ riêng ngày 11/08 có đến 100.000 lượt, gần gấp đôi con số 58.000 lượt trong ngày 01/05/2023 của tuyến 2A. Không chỉ giữ chức năng phương tiện giao thông công cộng, tuyến số 3 được đối tác Pháp muốn biến thành không gian thư giãn, sinh hoạt chung cho hành khách mà không nhàm chán, tẻ nhạt với việc đưa nghệ thuật vào các công trình giao thông. Đây cũng là một thế mạnh của Pháp và được triển khai rộng rãi trong hệ thống tàu điện ngầm Paris-Ile de France.
Lần đầu tiên, một tác phẩm nghệ thuật công cộng được đặt tại nhà ga đường sắt đô thị. Tác phẩm Năm giờ sáng, Hà Nội thức giấc - Il est cinq heures, Hanoï s’éveille (lấy cảm hứng từ bài hát nổi tiếng Pháp Il est cinq heures, Paris s’éveille), được Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tài trợ thông qua quỹ Metis và tặng thành phố Hà Nội, được đặt tại ga Cầu Giấy, đúng lễ vận hành thương mại đoạn trên cao và đặt biển khánh thành. Tác phẩm muốn truyền tải cùng lúc nhiều thông điệp về khuyến khích sử dụng giao thông công cộng, nhận thức về biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng, bảo tồn di sản văn hóa… Trong hành trình này, phía Pháp đã vận dụng rất nhiều công nghệ cao, hiện đại để tuyến số 3 xanh và bền vững, theo giải thích của đại sứ Olivier Brochet :
« Cam kết của Pháp trong quá trình xây dựng tuyến đường số 3, trước tiên là thông qua việc tài trợ bởi vì gần 50 triệu euro ngânsách đã được huy động từ kho bạc Pháp hoặc từ Cơ quan Phát triển Pháp AFD. Nhưng cam kết của Pháp còn được thể hiện qua việc huy động tinh hoa của công nghệ Pháp về giao thông đường sắt đô thị. Có thể thấy rất nhiều tên tuổi lớn trong lĩnh vực công nghệ Pháp, như Alstom, Colas Rail, Systra - một công ty kỹ thuật tổng hợp, RATP Smart Systems…
Tất cả những doanh nghiệp lớn của Pháp đều có kinh nghiệm dày dặn tại Pháp. Điều này được thấy trong kỳ Thế Vận Hội, các phương tiện giao thông đô thị đã đóng vai trò chủ đạo trong thành công của đại hội thể thao này. Những doanh nghiệp đó cũng được huy động trong dự án xây dựng mạng lưới Paris Express, hiện là dự án lớn nhất về giao thông đô thị ở châu Âu cho đến hiện nay. Người ta cũng thấy những doanh nghiệp lớn này của Pháp trong tất cả các dự án tàu điện trên thế giới, như ở Cairo (Ai Cập), ở Medellín (Colombia), ở Rabat (Maroc)… Và tất cả đều đang phục vụ tại Hà Nội và dĩ nhiên chúng tôi mong muốn phát triển thêm trong những dự án mới mà chính phủ Việt Nam dự kiến tiến hành trong những năm tới ».
Triển vọng hợp tác mới về giao thông vận tải
Dự án khởi công năm 2009, theo kế hoạch hoàn thành năm 2015 nhưng nhiều lần lùi tiến độ và dự kiến hoàn thành năm 2027, riêng đoạn trên cao đã được khai thác thương mại từ tháng 08/2024. Tổng vốn đầu tư cũng bị tăng gấp đôi, từ hơn 18.000 tỉ đồng lên gần 36.000 tỉ đồng. Liệu những điểm này có trở thành một trở ngại trong khi Pháp cho biết sẵn sàng đồng hành với Việt Nam trong những dự án trong tương lai ? Trả lời thắc mắc của RFI Tiếng Việt, đại sứ Olivier Brochet giải thích :
« Những dự án lớn này đều là những dự án vô cùng phức tạp ở khắp mọi nơi, phức tạp về mặt công nghệ, phức tạp trong việc triển khai công trường bởi vì cần phải xây dựng những công trường quy mô lớn ở một thành phố mà cuộc sống vẫn tiếp diễn theo nhịp độ thông thường, phức tạp về mặt cơ chế, thực hiện các quy định mới của Nhà nước thiết lập các hệ thống này.
Vì tất cả những lý dotích tụ nàydẫn đến những chậm trễ. Và tất cả các tuyến đường sắt đã được xây dựng đều bị chậm. Tuyến số 1 ở đây chẳng hạn cũng bị khởi công muộn. Tuyếnmới ở thành phố Hồ Chí Minh, được hợp tác xây dựng với Nhật Bản, cũng bị trễ. Đây là việc bình thường vì cần phải có thời gian học tập. Điều quan trọng hiện nay là có thể sử dụng quãng thời gian học tập đó để tiết kiệm thời gian sau này, qua việc đã có những tác nhân hiểu rõ vấn đề, hiểu những trông đợi, nhu cầu của mỗi bên để có thể có những dự án tiến triển nhanh hơn, sớm mang lại kết quả và đến lúc đó sẽ cho phép làm chủ chi phí tốt hơn.
Chính vì thế mà chúng tôi đã đề xuất với chính phủ Việt Nam là bắt đầu suy nghĩ luôn đến việc kéo dài tuyến số 3. Có nghĩa là không phải công trình ngầm đã được khởi công và đang tiến triển mà ngay từ bây giờ, nên bắt đầu chuẩn bị cho việc kéo dài tuyến. Bởi vì nếu dự tính sớm thì sẽ giúp triển khai công việc tiếp theo sau khi hoàn thành công trình ngầm và như vậy sẽ tránh được các chi phí bổ sung liên quan đến việc giải thể các công ty tham gia xây dựng tuyến số 3 ».
Trong chuyến công du Pháp của chủ tịch nước Việt Nam kiêm tổng bí thư Tô Lâm từ ngày 03-07/10/2024, hai nước bày tỏ mong muốn tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải hướng tới giảm phát thải carbon thông qua « Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực Giao thông Vận tải ». Theo bộ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thắng, « đây cũng là lĩnh vực mà Việt Nam hết sức quan tâm nhằm thực hiện các cam kết tại Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP21) và COP26 (phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050) trong lĩnh vực giao thông vận tải ».
Thực ra, theo trang Facebook Thông tin Chính phủ ngày 07/10, Việt Nam và Pháp đã phối hợp hoàn thành một số dự án trong lĩnh vực đường sắt, như hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt đoạn Hà Nội - Vinh do tập đoàn Alstom và đối tác Việt Nam triển khai ; dự án Cải tạo và nâng cấp tuyến đường sắt Yên Viên - Lào Cai do Ngân hàng Phát triển châu Á và Pháp đồng tài trợ.
Ngoài dự án đường sắt đô thị Nhổn - ga Hà Nội, bộ Giao thông Vận tải đã đề nghị Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam và cơ quan AFD nghiên cứu cung cấp « Hỗ trợ kỹ thuật lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án cải tạo, hiện đại hóa tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng », có xét đến tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng được xây dựng mới trong tương lai. Báo Chính phủ ngày 04/11 cho biết Cục Đường sắt Việt Nam (trực thuộc bộ Giao thông Vận tải) đã trình hồ sơ Quy hoạch tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh đi qua 10 tỉnh/thành phố.
Cơ quan AFD, hiện là nhà tài trợ song phương lớn nhất khu vực châu Âu của Việt Nam, cũng được kêu gọi tiếp tục trao đổi, tìm kiếm cơ hội hợp tác trong các dự án đường sắt tại Việt Nam thời gian tới. Ông Philippe Orliange, giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp tại Việt Nam, khẳng định AFD sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ vốn vay cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển đường sắt cao tốc, lĩnh vực mà Pháp có thế mạnh và Việt Nam đang đặc biệt quan tâm, mong muốn thực hiện trong thời gian tới.
Liệu thành công của tuyến đường sắt đô thị số 3 Nhổn - ga Hà Nội tiếp thêm sức bật cho những dự án mới ? Dù sao, theo bản ghi nhớ ký tại Paris, Việt Nam và Pháp dự định hợp tác trong các lĩnh vực đường sắt, hàng hải và đường thủy nội địa ; tạo thuận lợi cho chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải, tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi, thích ứng với biến đổi khí hậu… Đây cũng là những lĩnh vực hợp tác truyền thống và rất năng động giữa hai nước từ nhiều năm qua.
Mon, 18 Nov 2024 - 197 - Chiến thắng của Donald Trump sẽ không ảnh hưởng nhiều đến quan hệ Mỹ-Việt
Chiến thắng áp đảo của ứng cử viên Cộng Hòa Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 05/11/2024 sẽ có tác động đến toàn thế giới, đặc biệt là đến châu Âu.
Tại châu Á, trong khi một số đồng minh thân cận của Mỹ như Hàn Quốc hay Nhật Bản lo ngại khi thấy ông Trump trở lại Nhà Trắng, thì Việt Nam không sợ sẽ có những thay đổi lớn trong quan hệ với Hoa Kỳ, nếu có chăng thì đó là trong lĩnh vực thương mại, bởi lẽ chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ hai cũng sẽ thi hành một chính sách mang tính bảo hộ mậu dịch đối với tất cả các nước, kể cả với Việt Nam.
Trong phần tạp chí hôm nay, xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ.
RFI:Với việc Donald Trump trở lại Nhà Trắng, liệu chính sách châu Á của ông có sẽ tương tự như trong nhiệm kỳ đầu ?
Vũ Xuân Khang:Điều này còn phải trông chờ rất nhiều vào thành viên nội các của ông Trump trong tương lai, nhất là hai vị trí cố vấn an ninh quốc gia và ngoại trưởng. Tuy vậy, nhiệm kỳ 1 của Trump cho thấy là ông vẫn muốn duy trì hiện diện và ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nhưng rõ ràng ông Trump sẽ theo một cách khác với các tổng thống trước. Ông luôn mong muốn các nước đồng minh Châu Á phải mạnh tay chi tiêu quốc phòng hơn và ký kết các hiệp định thương mại có lợi cho Mỹ nhiều hơn, do ông là một tổng thống ưu tiên lợi ích nước Mỹ trong ngắn hạn hơn là trong dài hạn.
Ông Trump có thể giảm sự hiện diện của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á hoặc khu vực Châu Á nói chung khi nào các nước Châu Á không đáp ứng được yêu cầu của ông Trump, thứ nhất cắt giảm thâm hụt thương mại và thứ hai là đóng góp nhiều hơn vào việc bảo vệ an ninh khu vực, tăng chi phí quốc phòng để giảm gánh nặng cho Mỹ trong việc bảo vệ các nước đồng minh.
Các nước Châu Á trong thời gian tới sẽ cố gắng xoa dịu ông bằng cách mua hàng của Mỹ hay đầu tư nhiều hơn vào các doanh nghiệp Mỹ trên đất Mỹ nhằm giúp cho ông Trump gây được tiếng vang đối với cử tri trong nước, chứng tỏ là ông đã thực hiện được lời hứa Buy american, Hire american ( Mua hàng của Mỹ và Thuê nhân công Mỹ ).
RFI: Riêng đối với Việt Nam, từ nhiệm kỳ của Trump đến nhiệm kỳ của Biden, quan hệ Việt-Mỹ đã tiến triển như thế nào ? Có sự cách biệt nào đó hay có sự tiếp nối giữa hai nhiệm kỳ tổng thống?
Vũ Xuân Khang: Việt Nam may mắn là một trong những nước có được sự ủng hộ của lưỡng đảng Hoa Kỳ, do đó dù tổng thống là Cộng Hòa hay Dân Chủ, quan hệ Việt-Mỹ cũng sẽ có sự phát triển trong thời gian tới.
Quan hệ Việt-Mỹ đã có những bước tiến lớn từ năm 2017 đến nay cả dưới thời ông Trump nhiệm kỳ đầu tiên lẫn nhiệm kỳ Biden. Trong thời gian 7 năm qua, lần đầu tiên đã có một tàu sân bay Mỹ ghé cảng của Việt Nam vào năm 2018 và Mỹ vẫn tiếp tục chuyển giao các tàu tuần tra cho Cảnh sát biển Việt Nam, như một cam kết với an ninh của khu vực và đặc biệt đối với Biển Đông.
Dưới thời Biden, Việt Nam và Mỹ cũng đã nâng cấp quan hệ nhảy vọt lên thành đối tác chiến lược toàn diện và quan trọng nhất là Mỹ đã không trừng phạt Việt Nam sau khi cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ vào giai đoạn cuối của nhiệm kỳ Trump 1. Mặc dù vào tháng 8 năm nay, Mỹ đã không cấp cho Việt Nam quy chế kinh tế thị trường để giúp hàng hóa Việt Nam nhập vào Mỹ với giá rẻ hơn, nhưng hai nước sẽ tiếp tục đàm phán về vấn đề này.
Có thể thấy là quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam, khác với quan hệ với các đồng minh trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, sẽ tiếp tục phát triển bình thường và ổn định.
RFI: Trump đã từng nắm giữ chức tổng thống và đã từng sang thăm Việt Nam. Có lẽ là với chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ hai, giới lãnh đạo Việt Nam không mấy xa lạ với phong cách lãnh đạo của ông? Họ có thể dễ dàng thích ứng với những chính sách mới mà ông sẽ thi hành đối với Việt Nam? Với chính quyền Trump 2, chắc là họ cũng sẽ tiếp tục áp dụng chính sách ngoại giao "cây tre"?
Vũ Xuân Khang:Đúng là như vậy. Từ giai đoạn 1990 đến nay, ngoại giao "cây tre" vẫn là hòn đá tảng của ngoại giao Việt Nam và Hà Nội sẽ không thay đổi chính sách này chỉ vì một tổng thống Mỹ nhậm chức. Điểm mạnh của ngoại giao "cây tre" là Hà Nội không đặt hết trứng vào một giỏ, nên cho dù ai đắc cử tổng thống Mỹ, chính sách ngoại giao của Việt Nam với Mỹ cũng sẽ không thay đổi.
Bài học này là Việt Nam học từ giai đoạn Việt Nam liên minh với Liên Xô vào những năm 1970-1980. Việt Nam đã đặt niềm tin vào lãnh đạo Liên Xô Leonid Brejnev, nhưng khi có thay đổi lãnh đạo,ông Mikhail Gorbatchov lên nắm quyền 1985, thì rõ ràng là chính sách đối ngoại của Việt Nam bị phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đối ngoại của lãnh tụ Liên Xô. Do đó, khi ông Gorbatchov hòa hoãn với Trung Quốc, thì Việt Nam cũng đã bắt buộc thi hành chính sách hòa hoãn với Trung Quốc và rút quân khỏi Cam Bốt, do sức ép của Liên Xô.
Chính bài học này khiến Việt Nam phải cẩn thận hơn khi hành xử với các đối tác ngoại giao lớn. Chính sách ngoại giao "cây tre" sẽ giúp Việt Nam tập trung nhiều hơn vào việc phát triển quan hệ Việt - Mỹ nói chung, chứ không phải với một lãnh đạo nhất định nào cả. Trong thời gian tới, Việt Nam vẫn sẽ tập trung phát triển trao đổi kinh tế và công nghệ và hạn chế trao đổi quốc phòng với Mỹ do áp lực từ ngày xưa từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam.
Một ví dụ rất lớn: Mặc dù đã rất bất ngờ khi ông Trump thắng cử vào năm 2016, Việt Nam đã rất nhanh chóng tiếp cận với chính quyền Trump. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã là lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên được ông Trump tiếp đón tại Nhà Trắng vào tháng 5/2017. Trong dịp đó, Mỹ và Việt Nam có các trao đổi về thương mại cũng như quốc phòng. Chỉ vài ngày trước cuộc gặp diễn ra, Mỹ đã chuyển giao 1 tàu tuần tra cho Cảnh sát biển Việt Nam như một cam kết là Mỹ vẫn có lợi ích ở khu vực Đông Nam Á.
Chính quyền Việt Nam sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận ông Trump, do Việt Nam đã không tỏ ra ủng hộ bên nào hơn bên nào trong bầu cử tổng thống Mỹ, khác với các đồng minh Châu Á khác khi họ ủng hộ ứng cử viên Dân chủ Kamala Harris. Việc Việt Nam không phải là đồng minh của Mỹ cũng sẽ giúp Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn và không bị bó buộc vào một chính sách đối với một ứng cử viên.
RFI: Có thể Hoa Kỳ sẽ tiếp tục xem Việt Nam là một đối tác quan trọng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và có thể giúp Hoa Kỳ kềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Nhưng liệu có nguy cơ là ông Trump, với chủ trương America First( Nước Mỹ trước hết ), sẽ thi hành một chính sách thương mại mang tính bảo hộ mậu dịch nhiều hơn và điều này sẽ có ảnh hưởng gì đến Việt Nam, nhất là vì Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam?
Vũ Xuân Khang: Trump từ lâu đã tuyên bố cần phải giảm thâm hụt thương mại trong quan hệ với Việt Nam. Với tư cách là một tổng thống xuất thân từ giới kinh doanh và đặt ưu tiên là mọi người phải mua hàng của Mỹ và thuê nhân công Mỹ, ông Trump hiển nhiên không thích nước Mỹ bị Việt Nam "lợi dụng" về thương mại, theo cách nhìn của ông Trump.
Có khả năng cao là ông Trump sẽ ép Việt Nam mua nhiều hàng hóa của Mỹ hơn, thuê nhiều nhân công của Mỹ hơn và mở rộng các nhà máy ở Mỹ hơn, như tập đoàn Vinfast đã làm trong thời gian qua. Đây sẽ là cách ông Trump gây áp lực lên Việt Nam để làm giảm thâm hụt thương mại. Có thể yếu tố này, chứ không phải yếu tố Trung Quốc, sẽ quyết định sự phát triển của quan hệ Việt-Mỹ trong những năm tới.
Việt Nam cũng sẽ cần phải khôn khéo tránh các đòn trừng phạt thương mại của Mỹ, như cáo buộc thao túng tiền tệ, đồng thời nên chọn mua những mặt hàng của Mỹ nhằm phát triển công nghiệp 4.0 và trí tuệ nhân tạo, vì rõ ràng Mỹ vẫn là một nước có nền công nghiệp và công nghệ phát triển rất mạnh. Việt Nam cũng sẽ có lợi rất nhiều nếu như có thể chọn mua của Mỹ những thứ mà những nước khác không thể cung cấp cho Việt Nam. Đây cũng là một trọng tâm phát triển quan hệ Việt-Mỹ trong khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện ký kết vào năm ngoái, khi Việt Nam đặt nặng việc phát triển công nghệ bán dẫn và trí tuệ nhân tạo trong những năm tới.
Mon, 11 Nov 2024 - 196 - Việt Nam xem xét việc khởi động lại các dự án phát triển điện hạt nhân
Để bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn thực hiện được cam kết về chống biến đổi khí hậu, Việt Nam đang muốn quay trở lại với các dự án điện hạt nhân đã bị bỏ dở trước đây.
Vào giữa tháng 9 vừa qua, chính phủ Hà Nội đã giao cho bộ Công Thương nghiên cứu việc phát triển điện hạt nhân của các nước,“để đề xuất phát triển loại năng lượng này tại Việt Nam trong thời gian tới”. Trên cơ sở đó, chính phủ “sẽ báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định”.
Trên thế giới hiện nay, nhiều nước đang quay lại điện hạt nhân để chống biến đổi khí hậu vì hạt nhân là nguồn điện hầu như không phát thải CO2.
Vào năm 2009, Quốc Hội Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuân, với tổng cộng 4 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW. Các hợp đồng được giao cho tập đoàn Nhật Bản Japan Atomic Power Co và tập đoàn Nga Rosatom thực hiện, với tổng chi phí khoảng 8,9 tỷ đô la.
Nhưng một phần do những quan ngại từ tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 và một phần do khó khăn về ngân sách vào thời gian đó, dự án này đã dừng lại vào năm 2016 theo quyết định trong Nghị quyết 31 năm 2016 của Quốc Hội. Đến năm 2022, khi giám sát về việc thực hiện nghị quyết này của Quốc Hội, Ủy ban Kinh tế đã đề xuất nên xem xét phát triển năng lượng hạt nhân “trên cơ sở đánh giá đầy đủ, khoa học, chính xác thực trạng và dự báo cung cầu năng lượng”.
Nay nhu cầu phát triển điện hạt nhân càng trở nên cấp thiết do Việt Nam đang gặp nhiều trở ngại trong chiến lược phát triển các nguồn năng lượng sạch, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và khí đốt thiên nhiên, do các vấn đề về quy định và giá cả.
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/09/2024, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, cũng cho rằng đã đến lúc phải xem xét trở lại khả năng phát triển điện hạt nhân:
“Trong bối cảnh chung , rõ ràng là khi kiểm tra lại các phương án, chúng ta có thể xem xét trở lại vấn đề hạt nhân, vì năng lượng này có thể đóng góp phần lớn và tạo thêm bức tranh chung, tức là tiến đến thực hiện cho được cam kết netzero cũng như các phương án điện khác.
Trước đây chúng ta gác việc ấy lại, nhưng bây giờ thấy cần thiết phải xem xét, nhưng đấy chỉ mới là xem xét thôi, chứ còn điện hạt nhân thì có nhiều loại lắm, vấn đề là xem xét loại nào.
Bây giờ tình trạng chung các nước đều như thế cả, cho nên nước nào cũng sẽ xem xét phát triển điện hạt nhân, nhưng mỗi nước có một điều kiện riêng. Khi xem xét Việt Nam cũng phải dựa trên điều kiện của Việt Nam để đề ra những phương án cụ thể, chứ thực chất là các loại năng lượng tái tạo vẫn tốt, nhưng bao giờ cũng có những khó khăn”.
Thật ra, theo hãng tin Anh Reuters, từ nhiều năm qua, Việt Nam đã vẫn tiếp tục thăm dò khả năng phát triển điện hạt nhân và đã thảo luận với những nước như Nga, Hàn Quốc và Canada về việc hỗ trợ phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ.
Việc phát triển điện hạt nhân hiện không được đề cập trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đến 2030 ( Quy hoạch điện VIII ), nhưng trong báo cáo gửi các bộ ngành đề nghị góp ý cho dự thảo sửa quy hoạch này, bộ Công Thương có nhắc đến phát triển các nhà máy điện hạt nhân cỡ nhỏ (SMR) ở Việt Nam.
Theo Bộ này, các lò phản ứng module nhỏ có công suất khoảng 300 MW mỗi tổ máy, bằng một phần ba công suất của các lò truyền thống. Các nhà máy này sản xuất lượng điện có hàm lượng carbon thấp, thời gian xây dựng ngắn (khoảng 24-36 tháng).
Giáo sư Phạm Duy Hiển cũng đồng tình với việc phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ phù hợp với điều kiện của Việt Nam:
“Bây giờ nếu nói trở lại điện hạt nhân, ý kiến dứt khoát của tôi là không dùng điện hạt nhân như trước đây đã từng dự định làm ở Phan Rang theo mô hình các nhà máy thế hệ 3+, dùng công nghệ của Nga và của Nhật, rất là tốn kém, giải pháp về an toàn thì rất tốt, nhưng không cần thiết. Ví dụ như họ tính là nhà lò kiên cố đến mức mà máy bay có rơi thẳng xuống thì không sao cả. Để làm gì? Xác suất mà máy bay rơi xuống rơi xuống nhà lò thì cực kỳ thấp. Công nghệ đó có thể thích hợp với các nước tiên tiến. Bây giờ các nước đó xây những lò phản ứng cùng một lúc có thể cho ra hàng ngàn MW.
Còn bây giờ theo điện hạt nhân thì phải theo option mới, mà một trong những option đó là lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ. Lò phản ứng này rất thích hợp vì không đòi hỏi nhiều về cơ sở hạ tầng về pháp lý, về xây dựng…, nhưng công suất tối đa chỉ 100, 200 MW, nên tất nhiên là phải cần nhiều lò.”
Nhưng giáo sư Phạm Duy Hiển nhấn mạnh, hiện trên thế giới chưa có lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ nào sẵn sàng để được thương mại hóa:
"Nước nào cũng nói như vậy nhưng đâu đã có ai bán lò công suất thấp với giá tương đối phải chăng. Bộ Công Thương nếu có trình dự án cho Bộ Chính trị thì cũng để đấy, vì phải có thêm thời gian nghiên cứu và cũng chờ cho đến khi nào các lò công suất thấp đó được thương mại hóa, chắc chắn là phải sau năm 2030".
Nếu quyết định trở lại với các dự án phát triển điện hạt nhân, Việt Nam sẽ có thể trông chờ vào sự trợ giúp của nước nào? Trước mắt, có vẻ như Nga đang chiếm ưu thế trong số các đối tác tương lai của Việt Nam.
Theo báo chí trong nước, trong chuyến thăm cấp nhà nước của tổng thống Nga Vladimir Putin ở Việt Nam vào tháng 6/2024, hai bên đã khẳng định"phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình là lĩnh vực hứa hẹn trong mở rộng hợp tác song phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga."
Nhân dịp đó, Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) và Bộ Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam đã ký bản ghi nhớ về lộ trình thực hiện Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Dự án này bao gồm lò phản ứng hạt nhân với công suất 10 MW sẽ được xây dựng tại thành phố Long Khánh (Đồng Nai).
Thật ra thì ba nhiệm vụ quan trọng của lò phản ứng tại Long Khánh chỉ là sản xuất đồng vị phóng xạ, dược chất phóng xạ để chẩn đoán, điều trị ung thư; chiếu xạ silic tạo vật liệu bán dẫn; triển khai các nghiên cứu về ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và đồng vị phóng xạ. Nhưng đây được coi là cơ sở để "giúp nâng cao tiềm lực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam trong giai đoạn tới", theo đánh giá của chính phủ Việt Nam.
Hàn Quốc, một trong những quốc gia cũng có thế mạnh về năng lượng nguyên tử, cũng đã tỏ vẻ rất quan tâm đến khả năng phát triển loại năng lượng này ở Việt Nam. Theo báo chí trong nước, khi hội kiến chủ tịch nước Tô Lâm ngày 02/08, đại sứ Hàn Quốc Choi Young Sam bày tỏ mong muốn của Seoul tăng cường hợp tác với Hà Nội trong việc phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam.
Trước đó, Công ty Thủy điện và Điện hạt nhân Hàn Quốc (KHNP) thuộc Công ty Điện lực Hàn Quốc (KEPCO) ngày 22/6/2023 tại Hà Nội đã ký kết biên bản ghi nhớ với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) về hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực điện nguyên tử và lò phản ứng module nhỏ (SMR).
Việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam như đã nói ở trên phải cần nhiều năm, cho nên trước mắt, do nhu cầu tiêu thụ điện năng ngày càng lớn, Việt Nam phải cố gắng tiết kiệm điện, điều mà giáo sư Phạm Duy Hiển đã kêu gọi từ lâu:
"Tôi thấy rất mừng là nước đã nhận ra rằng mức tiêu thụ điện năng của mình là quá cao so với nhiều nước khác. Do đó ngay cả EVN ( Tập đoàn Điện lực Việt Nam ) cũng đã đề nghị nhà nước phải có một chính sách tiết kiệm điện một cách triệt để, thậm chí đề ra mục tiêu là hàng năm phải tiết kiệm 2% điện năng. Đấy là một chủ trương rất tích cực, góp phần vào mục tiêu chung, chứ không chỉ có việc phát triển các năng lượng tái tạo và những vấn đề khác."
Mon, 28 Oct 2024 - 195 - Nâng cấp đối tác chiến lược toàn diện với Pháp, chủ tịch Tô Lâm muốn thể hiện năng lực ngoại giao, ổn định chính trị Việt Nam
Trong chuyến thăm chính thức Pháp, tổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm đã hội đàm với tổng thống Emmanuel Macron tại điện Élysée, Paris hôm 07/10/2024. Hai bên quyết định nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện, mở ra một chương mới trong quan hệ lịch sử song phương. Thắt chặt quan hệ với một nước xuất khẩu vũ khí lớn ở châu Âu có tác động đến khả năng quốc phòng của Việt Nam hay không ? Cột mốc ngoại giao do ông Tô Lâm đặt ra, phải chăng giúp vị tổng bí thư vủng cố quyền lực, đặc biệt là về ngoại giao ?
Pháp, nước đầu tiên tại châu Âu, vừa trở thành thành viên thứ 8 trong câu lạc bộ các nước có quan hệ cấp cao nhất trong chính sách ngoại giao của Việt Nam, sau Trung Quốc (2008), Nga (2012), Ấn Độ (2016) Hàn Quốc (2022), Hoa Kỳ (2023), Nhật Bản (2023), Úc (2024).
Việc thắt chặt quan hệ giữa hai nước sẽ giúp tăng cường hợp tác kinh tế song phương. Pháp hiện là đối tác thương mại lớn thứ năm của Việt Nam. Trao đổi thương mại song phương tăng 42 % trong hơn một thập kỷ qua, đạt 4,8 tỷ đô la vào năm 2023. Pháp cũng đã đầu tư vào gần 700 dự án tại Việt Nam, và là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 16 tại Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Zachary M. Abuza, tại đại học National College War , Hoa Kỳ, nhấn mạnh rằng Việt Nam coi phát triển kinh tế là “ưu tiên” . Ông giải thích : “Nếu nhìn vào các đối tác chiến lược toàn diện mà Việt Nam đã thiết lập, tất cả đều là các đối tác kinh tế lớn. Đây luôn là tôn chỉ của Việt Nam trong chính sách ngoại giao. Hà Nội đang nổ lực để trở thành một nước phát triển, hoặc ít nhất là trong nhóm nước có thu nhập cao từ nay đến 2045. Do vậy, nâng cấp quan hệ với Pháp là một lựa chọn quan trọng cho Việt Nam, có thể đơn giản là vì những di sản thuộc địa, dù xấu hay tốt. Paris có một trang sử dài với Hà Nội. và Việt Nam đã đấu tranh trong nhiều năm để giành lại độc lập từ Pháp. Do vậy, tôi nghĩ rằng, về mặt biểu tượng, đó là điều quan trọng để Pháp trở thành nước châu Âu đầu tiên mà Việt Nam thiết lập quan hệ này”.
Sự tiếp nối "hợp lý"
Về phần mình, Laurent Gédéon, giảng viên tại đại học sư phạm Lyon, cho rằng việc nâng cấp quan hệ thể hiện sự tiếp nối “hợp lý” phát triển hợp tác giữa hai bên từ hơn chục năm qua, (sau khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2013). Cột mốc ngoại giao mới này còn được đánh dấu trong khuôn khổ mang tính biểu tượng cao của hội nghị thượng đỉnh Pháp ngữ lần thứ 19, lần đầu tiên ở Pháp sau 33 năm.
Trong cuộc gặp nguyên thủ Pháp tại điện Élysée, tổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Tô Lâm đã kêu gọi ông Emmanuel Macron dùng ảnh hưởng để sớm phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU, và để gỡ bỏ“thẻ vàng” mà Ủy Ban Châu Âu áp đặt đối với các sản phẩm thủy hải sản của Việt Nam.
Nhìn từ Paris, tăng cường quan hệ giữa hai nước cũng sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư Pháp và thâm nhập thị trường Việt Nam cũng như di dời một số hoạt động công nghiệp.
Ngoài việc thúc đẩy lợi ích kinh tế, theo nhà nghiên cứu Gédéon, cả Hà Nội và Paris đều muốn đưa “vấn đề Trung Quốc” vào trong chiến lược ngoại giao của mình. Với tư cách là thành viên của các tổ chức khu vực, và có một số ảnh hưởng nhất định tại ASEAN, Việt Nam được xem cửa ngõ quan trọng để Paris tìm cách tăng cường ảnh hưởng tại Đông Nam Á. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập cân bằng trong khu vực với Trung Quốc và có lợi cho Pháp.
Việt Nam cũng trông cậy vào ủng hộ của Pháp về lập trường đối với Biển Đông
Tuyên bố chung ngày 7/10/2024 khẳng định : ‘Hai bên cam kết duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông cũng như tuân thủ đầy đủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Cả hai bên kiên quyết phản đối mọi hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trái với luật pháp quốc tế; và tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì an ninh, tự do hàng hải và hàng không, không bị cản trở, cũng như quyền tự do đi lại ở Biển Đông…”
Nhà nghiên cứu Gédéon cho rằng : “Việt Nam cũng trông cậy vào ủng hộ của Pháp về lập trường đối với Biển Đông… Điều đáng chú ý trong tuyên bố chung ngày 07/10 là việc Pháp nhắc đến việc hỗ trợ nguồn lực quân sự cho Hà Nội, đặc biệt là lực lượng cảnh sát biển. Và điều này, phù hợp với mong muốn của Việt Nam trong việc tăng cường năng lực làm chủ, kiểm soát không gian biển, trong bối cảnh tranh chấp với Trung Quốc. Trong trường hợp này, Pháp không xuất hiện với tư cách đơn thuần là nhà cung cấp vũ khí cho Việt Nam, nhất là những loại vũ khí có thể đe dọa trực tiếp Trung Quốc nếu xảy ra xung đột - hiện vẫn là giả thuyết. Tuy nhiên, khía cạnh quân sự lại không được làm quá nổi bật, tôi cho rằng là để không “xúc phạm” Trung Quốc. Theo tôi, Pháp có mối quan tâm về việc liệu Việt Nam có đủ phương tiện để tự vệ, và khả năng đối phó với xâm lược quân sự nếu cần thiết. Trung Quốc cũng đang lưu ý đến điều này. Nhưng phải nhắc lại rằng Việt Nam cũng duy trì quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, trong đó có hợp tác quân sự, bất chấp những sóng gió giữa hai bên”.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường đa dạng hoá nguồn cung vũ khí, giảm dần phụ thuộc vào Nga, đối tác lịch sử của Hà Nội do lo ngại trước những tác động từ cuộc chiến ở Ukraina, chưa kể nhiều loại vũ khí từ Nga có thể lỗi thời, hoặc việc chuyển giao công nghệ phức tạp, vì cần biết tiếng Nga hoặc đến đào tạo tại Nga.
Đọc thêm : Nga nướng vũ khí ở Ukraina, Việt Nam lo nguồn cung thiếu hụt
Đối với Pháp, theo nhà nghiên cứu Zachary Abuza, Việt Nam là một thị trường tiềm năng và Paris nhận thấy nhu cầu của Việt Nam, cần thêm “tàu chiến, các loại chiến đấu cơ thế hệ mới, chẳng hạn như các máy bay Rafale.” Hơn nữa, nhà phân tích quân sự tại Natinal War College cho rằng “có thể Pháp sẽ dám mạnh tay hơn”, so với các nhà sản xuất từ các nước khác, quan tâm đến các hợp tác sản xuất, hoặc chuyển giao công nghệ cho Hà Nội. Việt Nam cũng tăng cường khả năng tự chủ vũ khí, sản xuất một số thiết bị quân sự. Tập đoàn Viettel của quân đôi Việt Nam, được cho là đã phát triển các hệ thống thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, ra đa, các thiết bị chỉ huy điều khiển,...
Những nỗ lực quân sự của Việt Nam, đặc biệt là trong việc tăng cường quan hệ với Pháp, được nhìn từ Trung Quốc như thế nào. Chuyên gia về quân sự Zachary Abuza giải thích : “Dĩ nhiên là Bắc Kinh sẽ bất mãn trước bất cứ nỗ lực hiện đại hoá quân sự của Hà Nội, nhưng Trung Quốc chỉ có thể tự đổ lỗi cho các hành động gây hấn của mình ở Biển Đông. Tuy nhiên, bất cứ hợp tác nào giữa Việt Nam với Pháp đều ít mang tính đe dọa cho Trung Quốc hơn là với Mỹ. Điều mà các chiến lược gia Trung Quốc quan ngại là các loại vũ khí bất đối đối xứng (asymetric weapons), như tàu chống tên lửa hay các hệ thông không người lái (mà Việt Nam có thể sản xuất).
“Củng cố tính chính danh trong hành động và lời nói của mình”
Một điều đáng chú ý khác trong chuyến thăm của ông Tô Lâm đến Pháp vừa qua, đó là “chưa bao giờ lãnh đạo Việt giữ đồng thời cả hai vị trí”, vừa là chủ tịch nước và tổng bí thư đảng Cộng Sản, mà thường chỉ giữ một chức vụ. (Ví dụ, trường hợp của Lê Khả Phiêu, giữ tổng Bí thư đảng Cộng Sản vào năm 2000; Trần Đức Lương, chủ tịch nước năm 2002, Nông Đức Mạnh - tổng bí thư đảng Cộng Sản vào năm 2005; Cuối cùng là Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư vào tháng 3 năm 2018, trước khi trở thành chủ tịch nước vào tháng 10 năm 2018.)
Giảng viên tại đại học sư phạm Lyon, Laurent Gédéon cho rằng việc nắm giữ cả hai chức vụ quan trọng, khi thực hiện các chuyến công du nước ngoài, giúp ông Tô Lâm “củng cố tính chính danh trong hành động và lời nói của mình”. Ông nói thêm : “Tôi cho rằng các chuyến thăm chính thức cùng những chuyến công du khác của ông Tô Lâm, có nhiều mục đích, trong đó muốn chứng tỏ rằng Việt Nam đã lật sang trang mới sau một thời kỳ hỗn loạn chính trị, (2 chủ tịch nước đã từ chức trong vòng hai năm, 2023-2024). Những biến động này đã tác động lớn đến hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, nảy sinh các câu hỏi về sự ổn định của chế độ chính trị. Chuyến thăm này như là một câu trả lời, khẳng định rằng thời kỳ bất ổn đã ở phía sau, cũng như tái khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo tôi, chuyến thăm của ông Tô Lâm tại Pháp, cũng không hề đặt vai trò tổng bí thư làm nền. Tổng bí thư cũng đã gặp bí thư quốc gia đảng Cộng Sản Pháp, Fabien Roussel, khẳng định rằng cuộc gặp là cơ hội để tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng Cộng Sản Pháp mà ông nhấn mạnh đến Hồ Chí Minh - một trong những thành viên sáng lập. Như vậy, có thể thấy rằng ông Tô Lâm không tách rời hai chức vụ của mình mà trái lại, lần lượt khẳng định vai trò của từng vị trí, tùy theo người đối thoại và bối cảnh”
Công du nước ngoài để thể hiện năng lực ngoại giao
Chuyến thăm Pháp của ông Tô Lâm nằm trong hành trình công du hơn 10 ngày, với các chặng dừng tại Mông Cổ và Ireland. Kể từ khi nhậm chức chủ tịch nước vào ngày 22.05, chức vụ mang tính nghi thức trong “Tứ trụ” ở Việt Nam, ông Tô Lâm, đã thực hiện nhiều chuyến công du nước ngoài mang tính truyền thống của Việt Nam, trước tiên là sang Lào, Cam Bốt, thể hiện mức độ chú trọng của Việt Nam về mặt ngoại giao với các đối tác láng giềng, mà Hà Nội có quan hệ mật thiết.
Đến ngày 3 tháng 8 vừa qua, với 100% phiếu ủng hộ, chủ tịch nước Tô Lâm đã được Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng Sản, khóa 13 bầu làm tổng bí thư nhiệm kỳ 2021-2026. Vài tuần sau khi nắm giữ đồng thời hai chức vụ quan trọng, ông Tô Lâm tiếp tục các chuyến thăm nước ngoài, sang Trung Quốc thăm cấp Nhà nước, gặp chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Không lâu sau đó, tổng bí thư, chủ tịch nước tiếp tục lên đường, sang Mỹ, dự cuộc họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, có cuộc hội đàm với tổng thống Joe Biden bên lề sự kiện này. Và gần đây nhất là chuyến thăm cấp Nhà nước đến Mông Cổ, Ireland và dự hội nghị thượng đỉnh của khối Pháp ngữ, đồng thời thăm chính thức Pháp.
Trước khi trở thành nhân vật quyền lực trong tứ trụ, ông Tô Lâm, với kinh nghiệm chính trường chủ yếu là ở trong nước, muốn thể hiện năng lực ngoại giao của mình qua các chuyến công du này. Theo nhà nghiên cứ Zachary Abuza, những nơi mà ông Tô Lâm đến, đều cho thấy rõ chính sách ngoại giao của Việt Nam, và Hà Nội vẫn luôn cố gửi tín hiệu đến Bắc Kinh, để khẳng định lập trường “trung lập, không liên minh”, và đều không trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh.
“Trung Quốc luôn chỉ tay cảnh báo giới lãnh đạo Việt Nam phải có chính sách đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, ông Tô Lâm có lý do để thăm cấp Nhà nước đến Cuba, sau chuyến đi đến Hoa Kỳ, ngoài lý do lịch sử và một số hoài niệm về cách mạng (Cộng Sản). Trong khi, nếu xét về kinh tế, thì chuyến đi đến Cuba hoàn toàn vô nghĩa, lãng phí thời gian, bởi ông Tô Lâm đáng lẽ ra có thể đến ve vãn đầu tư nước ngoài từ Canada hoặc châu Âu, hoặc dành nhiều thời gian hơn ở Hoa Kỳ. Hay chuyến thăm tới Ireland, một trung tâm công nghệ cao ở Châu Âu, và dù không phải là một quốc gia lớn, nhưng ưu đãi thuế quan của nước này khiến Ireland trở thành một trung tâm đầu tư rất quan trọng ở Châu Âu, và cũng có những trường đại học tuyệt vời, mà Việt Nam muốn tăng cường trao đổi giáo dục”.
Theo nhà nghiên cứu Zachary Abuza, ông Tâm Lô có vẻ rất muốn giữ hai chức vụ cùng lúc, như trường hợp của chủ tịch Tập Cận Bình ở Trung Quốc, vừa là lãnh đạo Cộng Sản, vừa là chủ tịch nước. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cho rằng “có những lo ngại” về việc ông Tô Lâm đang vi phạm quy tắc “do tập thể lãnh đạo”, quyền lực tối cao được “chia sẻ trong Tứ trụ”.
Và chiều 21/10, trong ngày họp đầu tiên của kỳ họp thứ 8, Quốc Hội Việt Nam đã bầu ông Lương Cường, ủy viên bộ Chính Trị, thường trực ban Bí thư, giữ chức chủ tịch nước, nhiệm kỳ 2021-2026.
Mon, 21 Oct 2024 - 194 - Trung Quốc biến Việt Nam thành lá bài quan trọng trong Con đường tơ lụa mới
Việt Nam muốn Trung Quốc hỗ trợ trợ xây dựng đường sắt ở miền bắc để kết nối sáng kiến "Hai hành lang, Một vành đai" với "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI) của Trung Quốc. Theo ông Hùng Ba, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, hệ thống đường sắt này "sẽ kết nối Việt Nam với các nước châu Âu - Tây Á qua tuyến đường sắt liên vận. Việt Nam sẽ thành cửa ngõ để Trung Quốc kết nối với các nước ASEAN, đồng thời là đầu mối quan trọng kết nối ASEAN với châu Âu và Trung Á".
Sáng kiến « Hai hành lang, Một vành đai », được Việt Nam và Trung Quốc thông qua năm 2004, là cụm từ gọi tắt của hành lang « Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng » và hành lang « Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng » và « Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ ». Sau nhiều năm cân nhắc bên phía Việt Nam, vấn đề hợp tác đường sắt được nhấn mạnh trong Điều 7 Tuyên bố chung ngày 20/08/2024, nhân chuyến công du Trung Quốc của tổng bí thư-chủ tịch nước Tô Lâm.
Việt Nam được lợi ích gì từ những dự án này ? Vai trò của Việt Nam trong kế hoạch Vanh đai và Con đường của Trung Quốc ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
RFI: Việt Nam dự kiến nhiều kế hoạch hiện đại hóa hệ thống đường sắt từ lâu. Vào tháng 04/2024, sau khi thông báo ý định trên, Việt Nam đã kêu gọi Trung Quốc hỗ trợ trong khi dường như Việt Nam đã lưỡng lự trong thời gian dài. Tại sao lại chọn thời điểm này ? Và tại sao lại là Trung Quốc ?
Laurent Gédéon : Dường như Trung Quốc đang tìm cách thúc đẩy mối quan hệ kinh tế với Việt Nam thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng để xây dựng thiện chí và niềm tin song phương. Điều này đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh trong bối cảnh mất lòng tin dai dẳng do các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông.
Chúng ta thấy mong muốn hòa dịu và xích lại gần nhau giữa hai nước từ nhiều năm nay, được thể hiện rõ qua các chuyến thăm của nhiều quan chức cấp cao. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến thăm chính thức Việt Nam vào ngày 12 và 13/12/2023 theo lời mời của người đồng cấp Việt Nam lúc bấy giờ là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Trong chuyến thăm này, ông Tập đã nêu một dự án xây dựng đường sắt liên doanh có thể nằm trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc.
Đọc thêm :Thăm Trung Quốc, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ thúc đẩy kết nối đường sắt giữa hai nướcSau đó, chủ đề này đã được thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc lại trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 24 đến 27/06/2024. Ông cho biết Việt Nam có kế hoạch xây dựng 3 tuyến đường sắt nối Trung Quốc trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường, cụ thể là ba tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ; Lạng Sơn - Hà Nội và Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng.
Cuối cùng, chuyến thăm Bắc Kinh của tổng bí thư chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm vào ngày 19-20/08/2024 đã cho phép Trung Quốc và Việt Nam ký kết 14 thỏa thuận, nhằm tăng cường thương mại và kết nối biên giới, đặc biệt là kế hoạch đường sắt. Nhân dịp này, ông Tập Cận Bình khẳng định Việt Nam là « ưu tiên » trong chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Ông cũng cam kết mở rộng Sáng kiến Vành đai và Con đường bằng cách thúc đẩy xây dựng đường sắt, đường cao tốc và hải cảng.
Tất cả những công bố và quyết định này đều nhất quán với Quy hoạch tổng thể đến năm 2050 với mục tiêu là kết nối mạng lưới đường sắt Việt Nam với tuyến đường sắt xuyên Á thông qua Trung Quốc và với mạng lưới đường sắt ASEAN thông qua Lào và Cam Bốt. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch, hai tuyến đường sắt cao tốc sẽ được xây dựng từ nay đến năm 2030 và sẽ nối các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc với các cảng trọng điểm Hải Phòng và Hà Nội.
Cho nên theo tôi, có lẽ bối cảnh chung hiện nay được đánh dấu bởi nhiều yếu tố : mong muốn phát triển đường sắt của Việt Nam, nguồn vốn dồi dào và sẵn có bên phía Trung Quốc và cuối cùng là mong muốn của Trung Quốc giảm bớt căng thẳng với nước láng giềng phương Nam vào lúc căng thẳng có xu hướng gia tăng ở eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông. Tất cả những yếu tố này giải thích cho động lực phát triển hiện nay trong hợp tác Việt - Trung.
RFI : Người ta thường nói đến rủi ro hoặc« bẫy nợ »khi nhắc đến các khoản vay từ Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những tác động như thế nào nếu nhận hỗ trợ từ Trung Quốc ? Liệu có thể có nguy cơ nào đó phụ thuộc vào Trung Quốc ?
Laurent Gédéon :Trong chuyến đi Trung Quốc vào tháng 06/2024, thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết chính phủ Việt Nam sẽ yêu cầu các cơ quan nghiên cứu soạn thảo một hiệp định liên chính phủ về việc triển khai ba tuyến đường sắt, trong đó nhấn mạnh đến « các khoản vay ưu đãi » từ Trung Quốc, « chuyển giao công nghệ và đào tạo nhânlực » để Việt Nam có thể tự phát triển ngành công nghiệp đường sắt.
Cũng cần lưu ý rằng bối cảnh hiện tại khá thuận lợi cho Việt Nam. Việc chuỗi cung ứng Mỹ và phương Tây rời khỏi Trung Quốc và tái tổ chức hoạt động, trong đó có Việt Nam, cũng đã buộc Trung Quốc phải tổ chức lại các mạng lưới chuỗi cung ứng sản xuất hướng sang Việt Nam.
Đọc thêm : Việt Nam gia tăng sử dụng đường sắt Trung Quốc xuất hàng sang châu ÂuNhưng cũng cần phải cảnh giác vì Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt là thép, nhựa và linh kiện điện tử thiết yếu để sản xuất thành phẩm. Động lực kinh tế đã làm gia tăng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc và lên đến 50 tỷ đô la vào năm 2023, tăng gần 50% trong 5 năm qua. Do đó, sự hội nhập của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu về cơ bản là nhờ vào hàng nhập khẩu Trung Quốc và bị phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Rõ ràng, sự phụ thuộc này, nếu đi kèm với khoản nợ đáng kể với Trung Quốc liên quan đến đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường sắt, có thể gây ra rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam, kể cả « bẫy nợ ».
Tuy nhiên, chúng ta có thể lưu ý rằng bẫy nợ cho đến nay vẫn gây nhiều tác động đến các quốc gia nhỏ hơn Việt Nam, như Sri Lanka hay Montenegro. Tương tự, cần phải nhớ rằng lợi ích đầu tiên của một chủ nợ, kể cả đó là một Nhà nước, là phải thu hồi vốn cùng với lợi nhuận, hơn là thấy « con nợ » chìm sâu trong vòng xoáy nợ nần. Dù sao vẫn phải luôn cảnh giác vì một Việt Nam yếu kém và phụ thuộc về tài chính có thể trở thành một lá bài về địa-chính trị cho Trung Quốc.
RFI :Ngược lại, đâu là những lợi ích mà Việt Nam có thể được hưởng từ những chương trình đầu tư này ?
Laurent Gédéon :Nhờ kết nối, vận tải hàng hóa và du lịch được cải thiện, Việt Nam có thể thu được nhiều lợi ích từ những khoản đầu tư này, cả về kinh tế lẫn chính trị :
Trước hết, nhờ tăng cường kết nối, Việt Nam sẽ có thể tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương với các nước láng giềng ASEAN cũng như với Trung Quốc. Số lượng container được vận chuyển mỗi năm bằng đường sắt về nguyên tắc sẽ tăng lên, song song đó là giảm chi phí về hậu cần.
Tiếp theo, ngành du lịch cũng sẽ được hưởng lợi nhiều nhờ sự gia tăng kết nối đường sắt này. Ngoài ra, sức hấp dẫn sẽ được tăng cường do tiết kiệm được đáng kể thời gian nhờ các mạng lưới đường sắt mới. Ví dụ, một chuyến tàu chở hàng từ Thành Đô hiện giờ mất khoảng bảy ngày để đến Hà Nội. Trước đây, hàng hóa từ Trùng Khánh về Việt Nam mất trung bình 20 ngày do phải đi đường biển qua Thượng Hải.
Đọc thêm :Bắc Kinh và Hà Nội xem xét nâng cấp tuyến đường sắt xuyên qua vùng giàu đất hiếm của Việt NamCuối cùng, một tuyến đường sắt từ Trung Quốc xuyên qua Việt Nam có thể sẽ nâng tầm quan trọng của Việt Nam hơn về mặt chiến lược đối với Bắc Kinh và nâng cao vị thế của Hà Nội nếu nhìn từ góc độ Trung Quốc. Khi đó, Trung Quốc có lẽ sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc để Việt Nam là đối tác thân thiết trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang được tái cấu trúc, cũng như cạnh tranh Mỹ - Trung.
Về mặt thực tiễn, các tuyến đường sắt được quy hoạch sẽ tích hợp mạng lưới của Việt Nam vào mạng lưới đường sắt xuyên Á, hiện có ba tuyến : tuyến ở giữa đi từ Côn Minh đến Lào và Bangkok ; tuyến phía tây đi qua Miến Điện và Thái Lan ; tuyến phía đông dự kiến đi qua Việt Nam, Cam Bốt và Thái Lan và kéo dài xuống phía nam tới Malaysia và Singapore.
Cũng cần lưu ý rằng tuyến tàu chở hàng Trùng Khánh - Hà Nội hiện đã kết nối Việt Nam vào hành lang thương mại quốc tế đường bộ-đường biển mới International Land-Sea Trade Corridor (ILSTC). Xin nhắc lại rằng đây là hành lang thương mại và hậu cần có trung tâm hoạt động ở Trùng Khánh và kết nối với 190 cảng ở 90 quốc gia. ILSTC là một trong số nhiều hành lang thương mại trong Sáng kiến Vành đai và Con đường.
Ngoài ra, còn phải nói đến tuyến đường sắt giữa Việt Nam và Lào đang được nghiên cứu, theo dự kiến sẽ được kết nối với tuyến đường sắt hiện có giữa Trung Quốc và Lào. Dự án này sẽ giúp Lào tiếp cận với lĩnh vực hàng hải và sẽ tạo ra các luồng trao đổi kinh tế có lợi cho Việt Nam.
RFI : Liệu thông qua những tuyến đường này có thể coi là Việt Nam tham gia vào dự án Con đường tơ lụa mới của Trung Quốc không ?
Laurent Gédéon :Trước tiên cần lưu ý rằng xét về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở cực đông của tất cả các tuyến đường và điều này khiến Việt Nam phần nào nằm bên rìa so với những nước khác. Việt Nam chỉ có thể được đưa vào dự án Con đường Tơ lụa mới thông qua hai tuyến : đường biển và hành lang Đông Dương. Liên quan đến Con đường Tơ lụa trên biển, Việt Nam nằm ngoài dự án này vì chỉ có cảng Hải Phòng nằm trên tuyến đường dự tính ban đầu. Cho nên, khả năng lớn nhất để Việt Nam hội nhập vào Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) là thông qua các tuyến trên đất liền.
Về mặt chính thức, Tuyên bố chung về Tăng cường Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc và Xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai được công bố vào ngày 20/08, nhân chuyến thăm của Tô Lâm tới Bắc Kinh, nhấn mạnh đến việc « Hai bên nhất trí thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, thực hiện hiệu quả kế hoạch hợp tác gắn sáng kiến Việt Nam « Hai hành lang, một vành đai » với sáng kiến « Một vành đai, một con đường » của Trung Quốc ; đẩy mạnh « kết nối cứng » về đường sắt, đường cao tốc và cơ sở hạ tầng biên giới ; […] ; Trung Quốc cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển quy hoạch các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn ». Do đó, việc đưa Việt Nam vào hệ thống, đặc biệt là những con đường tơ lụa mới trên đất liền, có lẽ là điều hiển nhiên.
Đọc thêm : Việt Nam-Trung Quốc nhất trí xây dựng “Cộng Đồng Chia Sẻ Tương Lai”Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý đến một yếu tố mang tính chiến lược hơn và rất được Trung Quốc quan tâm trong kế hoạch này. Chúng ta thấy rằng tuyến Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng cũng kết nối cảng Phòng Thành Cảng ở vùng duyên hải Quảng Tây. Trong khi cảng này nằm gần dự án kênh đào Bình Lục (Pinglu). Kênh này được dự kiến kết nối Nam Ninh, thủ phủ khu tự trị Quảng Tây, với vịnh Bắc Bộ. Thông qua tuyến đường này, hàng hóa có thể từ eo biển Malacca đi bằng đường biển vào Quảng Tây, rồi từ đó được chuyển vào sâu trong lục địa Trung Quốc, tránh đi qua eo biển Đài Loan.
Rõ ràng lợi ích của dự án này là rất lớn, ở cấp độ chiến lược bởi vì trong trường hợp xảy ra xung đột ở eo biển Đài Loan, Trung Quốc vẫn có thể vận chuyển thực phẩm và nguyên liệu thô qua kênh đào này, ngay cả khi toàn bộ tuyến đường Biển Đông, từ Hồng Kông đến Hoàng Hải, bị ngăn chặn. Với giả thuyết như vậy, chúng hiểu rằng Bắc Kinh cần phải duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam để những luồng vận tải này không bị gián đoạn.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
Mon, 14 Oct 2024 - 193 - Trung Quốc phải đối phó với hợp tác tuần duyên Việt Nam-Philippines ở Biển Đông ?
Tại sao Việt Nam và Philippines không ngồi lại đối thoại với nhau về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông để hợp lực đối phó với nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc ? Câu hỏi này từng được các nhà nghiên cứu Pháp nêu lên khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt (1). Những diễn biến gần đây cho thấy hai nước láng giềng Đông Nam Á đang có những bước đi đối thoại, thúc đẩy hợp tác trong vấn đề Biển Đông. Trung Quốc có chiến lược đối phó như thế nào ?
Việt Nam - Philippines quyết định phối hợp về vấn đề Biển Đông
Kể từ đầu năm 2024, Việt Nam và Philippines liên tục có những hoạt động thúc đẩy hợp tác song phương. Bắt đầu là chuyến công Việt Nam của tổng thống Philippines Marcos Jr. vào cuối tháng 01. Tại đất nước được ông Marcos đánh giá là “đối tác chiến lược duy nhất của Philippines” ở Đông Nam Á, ngày 30/01, hai bên đã ký kết hai bản ghi nhớ về an ninh về “ngăn ngừa sự cố ở Biển Đông” và “hợp tác trên biển” giữa lực lượng tuần duyên hai nước. “Những thỏa thuận này có thể hiểu là sẽ có lợi cho cả hai nước”, theo nhận định với RFI Tiếng Việt ngày 26/02 của giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Đông Nam Á Daniel K. Inouye (DKI APCSS) tại Hawai, Mỹ. Và “cũng có thể coi là bước đầu tiên tiến tới một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông”.
Đây là cơ sở để phát huy những sáng kiến hợp tác tiếp theo. Cuối tháng 07, tàu CSB 8002 rời cảng Việt Nam để đến Philippines giao lưu và lần đầu tiên tham gia huấn luyện chung với đối tác Philippines ngày 09/08. Ngay sau đó, Lực lượng tuần duyên Philippines thông báo sẽ gửi một tàu đến Việt Nam vào cuối năm để thúc đẩy hợp tác hàng hải giữa hai nước. Trước đó, trong tháng 6 và 7, cả hai nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc lần lượt nộp lên Liên Hiệp Quốc Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Biển Đông.
Đến cuối tháng 08, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Philippines trong ba ngày từ 29-31/08. Hai bộ trưởng chứng kiến lễ ký Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa đường biển ; Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quân y. Sự kiện này được bộ trưởng Quốc Phòng Philippines Teodoro đánh giá là Manila và Hà Nội “đã thấy một nền tảng hợp tác vững chắc để xây dựng niềm tin”.
Hợp tác Việt Nam - Philippines và tác động đến Trung Quốc
Liệu hàng loạt sự kiện thắt chặt hợp tác về an ninh và hàng hải giữa Việt Nam và Philippines trong những tháng gần đây có trở thành một mối đe dọa cho Trung Quốc ? Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhận định :
“Theo quan điểm của tôi, đây là vấn đề hợp tác kỹ thuật hơn là cách tiếp cận chiến lược của chính quyền Việt Nam. Vấn đề này nằm trong khuôn khổ hợp tác quân sự và an ninh cổ điển, kiểu hợp tác này cũng tồn tại với lực lượng tuần duyên Trung Quốc. Theo tôi, trước tiên chúng ta có thể thấy sáng kiến này phản ánh tính thực dụng của các nhà lãnh đạo Việt Nam và minh họa cho chính sách giữ khoảng cách cân bằng vốn là đặc trưng của ngoại giao Việt Nam. Hợp tác về mặt quân sự với Philippines cho phép Việt Nam thể hiện là một chủ thể đáng tin cậy trước các nước khác trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc, và có lợi thế là thể hiện rằng Hà Nội không từ bỏ tham vọng của họ ở Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa.
Các cuộc diễn tập chung vào tháng 08/2024, giữa thủy thủ Việt Nam và Philippines, đã xác nhận điểm này. Hai bên tập trung vào hỗ trợ và cứu hộ chứ không phải vào các hành động tấn công. Hai bên không gửi bất kỳ thông điệp thù nghịch nào tới Trung Quốc. Người ta cũng thấy rằng Việt Nam rất kín tiếng trong giai đoạn đỉnh điểm căng thẳng gần đây giữa Manila và Bắc Kinh. Trong những điều kiện này, ít có khả năng Bắc Kinh nhìn nhận là có một mối đe dọa trong diễn biến hiện nay về quan hệ giữa Việt Nam và Philippines”.
Bắc Kinh hung hăng với Manila, “hòa dịu” với Hà Nội
Trên thực tế, Trung Quốc cũng có cách tiếp cận và ứng xử rất khác nhau đối với Việt Nam và Philippines.
“Theo tôi, đây là một diễn biến rất thú vị, trái ngược với những gì vẫn diễn ra cách đây 3 năm. Ngày nay, dường như có một cách tiếp cận khác từ phía chính quyền Trung Quốc đối với vấn đề Philippines và Việt Nam. Tôi nghĩ Trung Quốc có lợi khi Việt Nam và Philippines trái ngược nhau về lựa chọn chiến lược. Một lựa chọn khác của Trung Quốc, đó là để Philippines và Việt Nam duy trì quan hệ ở mức độ hợp tác kỹ thuật, chứ không phải là có tầm nhìn chung chiến lược vì điều này có thể sẽ gây bất lợi cho Trung Quốc. Chúng ta vẫn biết là Phililppines xích lại gần Hoa Kỳ hơn từ vài năm nay nhưng Việt Nam vẫn giữ khoảng cách với Mỹ. Cho nên vẫn cần phải theo dõi thêm về diễn biến mới này. Ngoài ra, những thay đổi chính trị gần đây ở Việt nam có thể cho thấy rằng xu hướng hiện nay có lẽ là xu hướng có lợi cho việc ổn định quan hệ với Trung Quốc hơn là gây căng thẳng”.
Về chiến lược đối phó với những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với hơn 80% diện tích Biển Đông, Việt Nam và Philippines có chiến lược hoàn toàn khác nhau. Philippines công khai những sự cố, tranh chấp thậm chí là xô xát gây thương tích với tàu của lực lượng hải cảnh Trung Quốc, đặc biệt là ở hai điểm nóng bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và bãi cạn Sa Bin (Sabina). Bắc Kinh cũng không ngừng gia tăng sức ép đối với tàu của lực lượng tuần duyên Philippines cũng như chính quyền Manila. Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon phân tích :
“Cần phải nhớ rằng tầm nhìn địa-chiến lược của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở biên giới Biển Đông mà còn xa hơn, một bên là phía đông Thái Bình Dương và bên kia là Ấn Độ Dương. Do đó, chắc chắn là sự chú ý chiến lược của Trung Quốc hiện đang chuyển hướng mạnh mẽ sang Philippines trong bối cảnh áp lực ngày càng tăng từ Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, trong đó có thông qua Manila”.
Vì Bắc Kinh bận tập trung buộc tàu của Philippines rời khỏi hai bãi cạn, Hà Nội được cho là đã tận dụng thời gian lắng dịu trong căng thẳng với Trung Quốc ở Biển Đông để tăng tốc bồi đắp ở ít nhất 4 trên 6 rạn san hô chính ở quần đảo Trường Sa. Ngày 09/09, trang web Chathamhouse cho biết “các hình ảnh vệ tinh cho thấy hoạt động cải tạo đất quy mô lớn đang diễn ra tên các rạn san hô do Việt Nam kiểm soát. Hoạt động này, được xác định vào năm 2022, đã tăng đáng kể về quy mô trong năm nay (2024) và có vẻ sẽ tiếp tục”.
Ví dụ tại Bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef), tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải AMTI, trụ sở tại Washington (Mỹ), cho rằng có thể có một đường băng dài 3 km để chiến đấu cơ tầm xa có thể hạ cánh. Đảo Nam Yết (Namyit), sau khi được cải tạo trên diện rộng, hiện là thực thể lớn thứ hai của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, sau bãi Thuyền Chài. Theo hình ảnh được công ty Maxar Technologies chụp tháng 06/2024, một bến cảng lớn đã được nạo vét bên trong rạn san hô.
Tuy nhiên, tốc độ bồi bắp của Việt Nam không thể bằng Trung Quốc. Điều đáng nói là mặc dù thường xuyên phản đối các yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, nhưng Trung Quốc lại rất ít bình luận về các hoạt động cải tạo đất hiện tại của Hà Nội. Lý do tại sao ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon giải thích :
“Dưới thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã cải thiện quan hệ chính trị với Trung Quốc bằng cách tránhđểgia tăng cạnh tranh lãnh thổ giữa hai nước. Ngoài ra, việc nâng cấp mối quan hệ Việt-Trung lên tầm “cộng đồng chung vận mệnh”,theo phát biểu củachủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 12/2023 nhân chuyến thăm Việt Nam, mà Hà Nội coi đây là “Xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc”,cũng là một bước tiến quan trọng mà Hà Nội từng do dự trước đó, chủ yếu vì lý do tranh chấp trên biển giữa hai nước.
Có nghĩa là nếu quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh dường như đang đi theo hướng ngày càng hòa bình hơn thì điều này không ngăn cản được những căng thẳng lẻ tẻ trên thực địa. Do đó, Việt Nam duy trì hợp tác quân sự tích cực với Philippines, điều này cho phép Hà Nội duy trì uy tín trước cả Bắc Kinh cũng như Washington và các đồng minh của Mỹ trong khu vực”.
Điều đáng chú ý, được nhà nghiên cứu Laurent Gédéon nhấn mạnh, là sự cải thiện mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines tại các vùng biển tranh chấp, đặc biệt là các vụ đối đầu giữa lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc và Philippines. Dù không chính thức lên tiếng về việc Hà Nội thắt chặt hợp tác với Manila nhưng Bắc Kinh không quên gián tiếp “nhắc nhở” Hà Nội :
“Người ta thấy rằng ngay trước khi Việt Nam chuẩn bị tổ chức cuộc tập trận chung trên biển với Philippines vào ngày 09/08, trong vòng chưa đầy một tuần, một drone của Trung Quốc đã bay sát bờ biển Việt Nam hai lần, vào ngày 02 và ngày 07/08. Vụ xâm nhập thứ hai diễn ra ba ngày sau khi ông Tô Lâm được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng điều đáng chú ý lần này là Trung Quốc đã cố tình kích hoạt đèn hiệu của máy bay, mặc dù họ không hề làm như vậy trước đó. Việt Nam chưa lên tiếng về vụ việc này và có thể coi đây là tín hiệu chính trị từ Bắc Kinh nhằm làm giảm căng thẳng”.
Một tháng sau sự kiện này, Vùng Cảnh sát biển Việt Nam 3 đã tổ chức một cuộc tập trận bắn đạn thật hiếm hoi, từ ngày 05 đến 11/09, ở ngoài khơi tỉnh Bình Thuận, để kiểm tra phản ứng trước các mối đe dọa an ninh và bảo vệ chủ quyền.
Ngay khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Hai nước đã ra thông cáo chung ngày 20/08 và vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông được nêu trong Điểm 10 của thông cáo : “(…) Hai bên nhất trí (…) cùng duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông (…)”, phù hợp với “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LiênHiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp”.
(1) Việt Nam, Malaysia, Philippines: Gác tranh chấp, chống Trung Quốc ở Biển Đông?
Mon, 07 Oct 2024 - 192 - Tiến trình bình thường hóa bang giao Việt Nam - Vatican: Chậm nhưng chắc
Sau nhiều thăng trầm, quan hệ giữa Việt Nam và Vatican đã đạt được một bước tiến lớn với việc thông qua “Thỏa thuận Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng Đại diện thường trú Tòa thánh tại Việt Nam”. Thỏa thuận đã được thông qua vào tháng 7/2023 khi chủ tịch nước của Việt Nam vào lúc đó là Võ Văn Thưởng thăm Tòa Thánh và gặp giáo hoàng Phanxicô.
Đến ngày 23/12 vừa qua, Tòa thánh Vatican đã chính thức công bố việc Tổng Giám mục Marek Zalewski được giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Đại diện thường trú đầu tiên của Tòa thánh tại Việt Nam. Tổng Giám mục Marek Zalewski nguyên là Sứ thần Tòa thánh tại Singapore và đã kiêm nhiệm Đặc phái viên không Thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam từ năm 2018. Việt Nam là quốc gia Cộng Sản duy nhất mà Vatican có đại diện thường trú.
Một sự kiện đáng chú ý khác trong quan hệ Việt Nam - Vatican đó là vào tháng 4 năm nay, lần đầu tiên một ngoại trưởng của Tòa thánh đến thăm Việt Nam, đó là Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher. Chính quyền Hà Nội thì từ lâu cũng đã công nhận vai trò của Giáo hội Công giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam thông qua các hoạt động thiện nguyện, giáo dục, y tế, dạy nghề….
Tuy đã đạt được những bước tiến lớn như vậy, Hà Nội và Vatican cho tới nay vẫn chưa có dấu hiệu nào sẽ sớm bình thường hóa bang giao. Thậm chí, trong chuyến tông du của giáo hoàng Phanxicô đến Đông Nam Á và Thái Bình Dương, ngài cũng đã không đặt chân đến Việt Nam mặc dù trước đó giáo hoàng cho biết rất muốn là lãnh đạo đầu tiên của Giáo hội Công Giáo Hoàn Vũ đến thăm quốc gia vốn đã cắt đứt bang giao với Vatican sau năm 1975.
Vì sao giáo hoàng đã không đến thăm Việt Nam trong chuyến tông du Đông Nam Á và Thái Bình Dương lần này? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 02/09/2024, giảng viên lịch sử Đông Nam Á Trần Thị Liên Claire, chuyên về lịch sử tôn giáo ở Việt Nam, Đại học Paris Cité, giải thích:
“Rõ ràng đó là do những thay đổi nhân sự lãnh đạo chính trị trong những tháng gần đây. Trước hết là vụ từ chức bất ngờ ngày 20/03 của chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, người đã ký thỏa thuận với Roma về việc bổ nhiệm một đại diện thường trực của giáo hoàng ở Hà Nội. Tiếp đến là việc bổ nhiệm ông Tô Lâm làm chủ tịch nước ngày 22/05. Rồi đến ngày 19/07, tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng qua đời, sau đó ông Tô Lâm được Bộ Chính trị giao kiêm nhiệm tổng bí thư ngày 03/08.
Những thay đổi nhân sự lãnh đạo kể từ tháng 3, và trong thời gian đó tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp qua đời nên rất khó cho Việt Nam đón tiếp giáo hoàng. Tôi cũng xin lưu ý là hồng y Parolin, nhân vật giống như là thủ tướng của Vatican, lúc đó đã thay mặt giáo hoàng gởi lời chia buồn đến chủ tịch Việt Nam và đã đề cao vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc cải thiện quan hệ giữa Vatican với Việt Nam. Bản thân ông Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng đến thăm Vatican năm 2013 và gặp giáo hoàng Benedicto 16.
Đã có rất nhiều cuộc gặp cấp cao giữa hai bên, nhưng bối cảnh chính trị xáo trộn của Việt Nam trong những tháng gần đây giải thích vì sao không thể tổ chức chuyến thăm của giáo hoàng.”
Như vậy là gần như sẽ không còn cơ hội cho giáo hoàng Phanxicô đến thăm Việt Nam như mong muốn của ngài, bởi vì vị lãnh đạo Giáo hội Hoàn vũ năm nay đã 87 tuổi rồi, sau chuyến tông du kéo dài đến 12 ngày lần này chắc là ngài sẽ không còn đủ sức để trở lại châu Á. Đây quả là điều rất đáng tiếc vì quan hệ giữa Tòa Thánh với Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong những thập niên qua, đặc biệt là thái độ nghi ngại của Hà Nội đối với Tòa Thánh đã giảm đi rất nhiều, thể hiện qua việc chấp nhận cho Vatican bổ nhiệm một đại diện thường trú ở Việt Nam, theo nhận xét của nhà nghiên cứu về lịch sử tôn giáo Việt Nam Trần Thị Liên Claire:
“Năm 2023 đã cho thấy là sự nghi ngại của phía Việt Nam đối với Vatican đã xuống đến mức thấp nhất. Việc chủ tịch nước Võ Văn Thưởng vào tháng 07/2023 ký kết thỏa thuận lần đầu tiên chấp nhận cho Tòa Thánh bổ nhiệm một đại diện không thường trực ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng. Đây là vị đại diện thường trực đầu tiên kể từ khi vị khâm sứ của Tòa Thánh ở miền bắc bị trục xuất vào năm 1959 và sau đó là khâm sứ ở miền nam bị trục xuất năm 1975.
Cho dù Tổng Giám mục Marek Zalewski chỉ là đại diện thường trú chứ chưa phải là sứ thần hay khâm sứ của Tòa Thánh, nhưng coi như đây là một đại diện của giáo hoàng, một chức vụ có tính biểu tượng cao và quan trọng.
Năm 2023 đánh dấu một bước ngoặt, nhất là với lời mời giáo hoàng đến thăm Việt Nam của chủ tịch nước lúc đó là Võ Văn Thưởng. Lời mời này được đưa ra một ngày sau khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kết thúc chuyến thăm Việt Nam.
Rất có thể là chính sách của Việt Nam sẽ không thay đổi. Cho dù ông Tô Lâm không được xem là một nhân vật cấp tiến mà đúng hơn là một nhân vật bảo thủ, ở Việt Nam, chính sách tôn giáo không chỉ có liên hệ với tôn giáo, mà còn liên hệ với những mục tiêu về ngoại giao, kinh tế, chiến lược. Vị đại diện thường trực của Tòa Thánh sẽ làm việc với Ban Tôn giáo của chính phủ, với bộ Ngoại Giao và trong vài tháng nữa chúng ta sẽ biết chính sách của ông Tô Lâm sẽ như thế nào.
Có thể nói là kể từ khi thời Đổi Mới, thái độ nghi ngại đó đã giảm đi rất nhiều. Không phải không còn những bất đồng, nhưng tình hình chính trị ở sẽ không ảnh hưởng đến những thay đổi trong ba thập niên qua.”
Nói chung, đối với giảng viên Trần Thị Liên Claire, có thể nói là tiến trình bình thường hóa bang giao giữa Việt Nam và Vatican diễn ra chậm nhưng chắc:
“Như tôi đã nói, vẫn còn những bất đồng, nhưng tôi muốn nhấn mạnh là đối thoại giữa hai bên chưa bao giờ bị gián đoạn, nhờ thái độ thực dụng của ba nhân tố chính: Đảng Cộng sản Việt Nam, Vatican và Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Diễn biến từ năm 1989, khi đại diện đầu tiên của giáo hoàng, hồng y Etchegaray, đến thăm Việt Nam, cho thấy tiến trình bình thường hóa bang giao từ 35 năm qua tuy chậm nhưng chắc. Tuy chưa có bình thường hóa, tức là chưa có một sứ thần của Tòa Thánh ở Việt Nam, nhưng từ năm 2007 đã có đến 5 lãnh đạo cao cấp của Việt Nam đã được tiếp ở Vatican: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai chủ tịch nước Trần Đại Quang và Võ Văn Thưởng. Không có một nước Cộng Sản nào là các lãnh đạo viếng thăm Vatican nhiều như Việt Nam, cho thấy là trao đổi diễn ra ở cấp cao nhất, chứ không chỉ ở cấp bộ trưởng Ngoại Giao.
Những trao đổi cũng đã có từ năm 2009 với việc thành lập nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican. Nhóm này vẫn họp mỗi năm từ 2009 và đã đạt được kết quả là bổ nhiệm một đại diện thường trực của Tòa Thánh ở Việt Nam. Đối thoại giữa hai bên, chưa bao giờ bị gián đoạn, cũng đã giúp giải quyết vấn đề bổ nhiệm các giám mục, để cho các tu sĩ linh mục được đào tạo ở khắp nơi trên thế giới, cho phép Caritas, tổ chức thiện nguyện của Giáo hội, được hoạt động trở lại từ năm 2008.
Có thể nói là đối thoại giữa từ ba thập niên qua đã giúp đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng đã cần rất nhiều thời gian. Câu hỏi đặt ra bây giờ là Việt Nam có thể lập quan hệ ngoại giao với Vatican trước Trung Quốc hay không? Liệu Trung Quốc có chấp nhận điều đó hay không? Cả Vatican và Việt Nam đều phải tính đến phản ứng của Trung Quốc. Hồng y Parolin, vốn vẫn rất tích cực trong các cuộc đối thoại, đã nhiều lần nói rằng mô hình của Việt Nam có thể được áp dụng cho Trung Quốc, nhất là về việc bổ nhiệm các giám mục, một vấn đề rất nhạy cảm. Điều chính yếu đối với ba tác nhân là phải duy trì đối thoại và giải quyết theo từng trường hợp một. Tôi nghĩ là sự hiện diện của Tổng giám mục Zalewski ở Hà Nội cũng sẽ giúp giải quyết vấn đề đó.
Việc bình thường hóa quan hệ sẽ không diễn ra ngay trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, cũng như trong bối cảnh quan hệ giữa Vatican với Trung Quốc. Nhưng suy cho cùng thì điều đó có thật sự quan trọng không? Chủ yếu là phải làm sao cho cộng đồng tín hữu Công Giáo luôn có điều kiện thuận lợi nhất để sống đạo. Đó mới thật sự là điều quan trọng đối với Giáo hội Việt Nam và Vatican.”
Thật ra thì theo cái nhìn của bà Trần Thị Liên Claire, đối với chính quyền Hà Nội, quan hệ tốt với Tòa Thánh có lợi cả về mặt kinh tế, lẫn địa chính trị:
"Việt Nam là một trường hợp đặc biệt trong số các quốc gia Cộng sản, nhất là ở châu Á. Chính sách tôn giáo của Việt Nam không chỉ mang tính tôn giáo mà nằm trong chính sách chung về kinh tế, địa chính trị và quân sự.
Trước hết là về kinh tế. Từ năm 1998, trong đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế được ban hành dưới thời Bill Clinton, Hoa Kỳ gắn liền quan hệ kinh tế với tự do tôn giáo. Vì muốn bằng mọi giá hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, phát triển hiệp định tự do mậu dịch với Hoa Kỳ và Liên Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải nỗ lực cải thiện tự do tôn giáo vì lý do kinh tế. Những tiến bộ đó đã góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành quả kinh tế quan trọng. Đảng phải đạt thành công kinh tế để bảo vệ tính chính danh của mình, mục tiêu là duy trì mức tăng trưởng cao. Năm nay Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng đứng hàng thứ hai ở Đông Nam Á. Phải làm sao giữ chân các nhà đầu tư ngoại quốc, nhất là trong bối cảnh nhiều công ty đa quốc gia đã rời bỏ Trung Quốc để chuyển sang Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế đó, Việt Nam cần có quan hệ tốt với Vatican. Tuy đó không phải là yếu tố quyết định, nhưng mối quan hệ tốt đó là nhằm chứng tỏ Việt Nam đã có những nỗ lực về tự do tôn giáo.
Lý do thứ hai là về mặt địa chính trị quốc tế. Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2023-2025 và trước đó đã là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021, quan hệ tốt với Vatican cũng là thể hiện hình ảnh một quốc gia đáng tin cậy. Cho dù không thể so sánh Vatican với Hoa Kỳ, Liên Âu hay với các cường quốc châu Á như Ấn Độ hay Nhật Bản, nhưng Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách ngoại giao "cây tre", tức là giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc. Tòa Thánh chỉ là một nước nhỏ, nhưng là một quốc gia có tính biểu tượng cao.
Lý do cuối cùng là về mặt quân sự. Theo chính sách đa phương hóa, Việt Nam phải tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông. Quan hệ tối với Vatican cũng nhằm chứng tỏ với các cường quốc phương Tây là Việt Nam vẫn chủ trương đối thoại với các cường quốc này. Việt Nam hiện vẫn cố tìm những đối trọng với láng giềng Trung Quốc hùng mạnh. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm Hoa Kỳ vào năm 2015 và được tổng thống Mỹ đón tiếp tại Nhà Trắng. Ngoại trưởng Antony Blinken đã đến Việt Nam chia buồn sau lễ quốc tang ông Nguyễn Phú Trọng trong tháng 7 và ông đã nhấn mạnh đến mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ với Việt Nam. Tân chủ tịch nướcTô Lâm cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác này và đã hoan nghênh sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam vững mạnh, độc lập, tự chủ và thịnh vượng."
Mon, 30 Sep 2024 - 191 - Chủ tịch nước Tô Lâm đi Hoa Kỳ: Cơ hội để thúc đẩy quan hệ Mỹ - Việt?
Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã đến New York cuối tuần qua để dự Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Theo thông báo của Nhà Trắng, nhân djp này ông Tô Lâm sẽ gặp tổng thống Mỹ Joe Biden hôm thứ tư 25/09/2024 bên lề Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm liệu có sẽ là cơ hội để thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt, trong bối cảnh vừa có những thay đổi trong thượng tầng lãnh đạo ở Hà Nội?
Trong bài viết đăng trên trang mạng The Diplomat ngày 29/08/2024, nhà báo chuyên về châu Á David Hutt cho biết ông nghe nói rằng Việt Nam đã muốn chuyến đi của ông Tô Lâm ở Hoa Kỳ là chuyến thăm cấp nhà nước chính thức. Nhưng cuối cùng thì chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm chỉ là chuyến đi "làm việc" theo thông báo của bộ Ngoại Giao Việt Nam ngày 19/09. Theo David Hutt, Hà Nội có thể sẽ không quá nản lòng với một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi như vậy. Bất kỳ cuộc gặp nào giữa ông Tô Lâm với ông Biden hoặc bà Harris đều phần lớn mang tính biểu tượng, "điều quan trọng là họ gặp nhau".
Trên trang mạng Geopolitical Monitor ngày 18/09/2024, nhà nghiên cứu độc lập James Borton nhận định chuyến đi của ông Tô Lâm tại Hoa Kỳ có thể sẽ giúp làm nổi bật ý nghĩa của thỏa thuận về quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện mà hai nước đã đạt được vào năm ngoái.
Ông Borton nhắc lại tổng thống Joe Biden đã từng ca ngợi mối quan hệ ngày càng phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và cũng đã gởi lời chúc mừng tới chủ tịch nước Tô Lâm khi ông được bầu làm tổng bí thư, bày tỏ “sự lạc quan về chương mới trong sự lãnh đạo của Việt Nam”. Theo tổng thống Biden, chương mới đó là một cơ hội rất tốt để hai nước tăng cường quan hệ chiến lược và hợp tác trong những vấn đề thiết yếu như tăng trưởng kinh tế, an ninh khu vực, thương mại và chống biến đổi khí hậu.
Trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu James Borton còn lưu ý phó tổng thống Kamala Harris, ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, cũng đã nhanh chóng thừa nhận vai trò quan trọng của Việt Nam trong khu vực với tư cách là đối tác chiến lược của Hoa Kỳ. Mặc dù có sự khác biệt về hệ thống chính trị và hệ tư tưởng, Hoa Kỳ đã cố xây dựng mối quan hệ dựa trên thiện chí và lòng tin hiện có giữa Hà Nội và Washington.
Tuy nhiên, theo ông Borton, nhân quyền vẫn là một chủ đề nhạy cảm trong quan hệ Mỹ-Việt Nam. Hoa Kỳ thường nêu ra các vấn đề về tự do ngôn luận, quyền lao động và bất đồng chính kiến, trong khi Việt Nam coi đây là những vấn đề nội bộ. Các vấn đề chính trị và nhân quyền vẫn là những điểm bế tắc có thể ảnh hưởng đến bang giao lâu dài.
Trước chuyến đi Hoa Kỳ của thăm của ông Tô Lâm, chính phủ Việt Nam đã trả tự do trước thời hạn cho một số nhà hoạt động hàng đầu, đó là ông Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động nhân quyền bị kết án tù 16 năm vào năm 2010 về tội " Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền" và bà Hoàng Thị Minh Hồng, nhà hoạt động môi trường đang thọ án 3 năm tù về tội "gian lận thuế" sau khi bị kết án vào năm ngoái. Hành động này có thể báo hiệu những nhượng bộ tiềm tàng của Hà Nội đối với mối quan ngại của Washignton về các vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.
Ngoài ra còn phải tính đến "yếu tố Trung Quốc". Trước khi đến Hoa Kỳ, ông Tô Lâm đã chọn Trung Quốc để mở chuyến công du ngoại quốc đầu tiên với tư cách tổng bí thư đảng. Đây là chuyện bình thường theo truyền thống ngoại giao của Việt Nam với láng giềng Cộng sản phương bắc. Nhưng trong khi quan hệ Việt-Trung có vẽ rất hữu hảo, thì quan hệ Việt – Mỹ dường như đang gặp vấn đề, nhất là qua việc Washington đã từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Trả lời RFI qua điện thoại ngày 05/09/2024, tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ, nhận định:
"Quan hệ Việt Nam với Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ sẽ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc. Do vậy, việc ông Tô Lâm đi thăm Trung Quốc trước khi đi thăm Mỹ là một bước đi cần thiết để tạo tiền đề cho chuyến thăm Mỹ sắp tới, chứ hoàn toàn không thể hiện Việt Nam ngả theo bên này hay bên kia.
Rõ ràng là việc Washington từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường là một bước lùi rất lớn trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, nhất là khi Việt Nam đặt việc Mỹ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường là ưu tiên trong quan hệ với Mỹ. Cần phải nói rõ: Việt Nam không được công nhận không phải là do Việt Nam không có nền kinh thế thị trường thực sự, mà là do Mỹ vẫn còn nhiều nghi kỵ đối với chính quyền Cộng sản ở Việt Nam.
Trong Chiến tranh lạnh, Mỹ sẵn sàng công nhận kinh tế thị trường với các nước đồng minh châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Đài Loan, mặc dù các nước này lúc bấy giờ có nền kinh tế phi thị trường và không có công đoàn độc lập như Mỹ yêu cầu. Mỹ đã cấp quy chế kinh tế thị trường để bảo đảm là các nước này phát triển thần kỳ, nhanh chóng, dưới sự bảo hộ của Mỹ và từ đó có thể giúp Mỹ chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.
Tuy nhiên,Việt Nam hiện tại không nhận được ưu ái đó, do chưa phải là đồng minh của Mỹ, cũng như tiếng nói chống Cộng sản của đại bộ phận cộng đồng người Mỹ gốc Việt vẫn còn rất lớn. Yếu tố ý thức hệ này sẽ là vật cản lớn, song song với các sức ép từ phía Trung Quốc buộc Việt Nam giữ vị trí trung lập trong quan hệ Việt-Mỹ."
Khi tỏ ra quá thân thiện với ông Tập Cận Bình nói riêng và với Bắc Kinh nói chung, thể hiện qua chuyến đi Trung Quốc vừa qua của ông Tô Lâm, liệu Hà Nội có sẽ khiến chính quyền Biden nghi ngờ về thực tâm của Việt Nam muốn phát triển hơn nữa quan hệ với Hoa Kỳ? Ngược lại, Hà Nội đã thật sự có sự tin cậy vào Washington, hay vẫn còn ngờ vực về ý đồ thật sự của Mỹ? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang cố giải đáp những câu hỏi đó:
"Yếu tố ý thức hệ là một trong những nguyên nhân chính đằng sau việc Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, và như tôi đã nói thì quan hệ Việt - Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc.
Nếu như so sánh yếu tố ý thức hệ trong quan hệ Việt-Trung trong chuyến thăm vừa qua của ông Tô Lâm với quan hệ Việt- Mỹ, có thể thấy là Việt Nam và Trung Quốc đều đạt được đồng thuận về việc phải duy trì ổn định chính trị ở mỗi nước. Khác với Mỹ, Trung Quốc không có nhu cầu hay lợi ích nào trong việc ủng hộ cách mạng màu hay lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam, do nếu Việt Nam gặp bất ổn chính trị thì Trung Quốc cũng sẽ bị vạ lây, do là láng giềng với nhau. Trung Quốc vẫn mong muốn Việt Nam phát triển ổn định và trung lập.
Trái lại thì Mỹ mặc dù trấn an Việt Nam rằng họ tôn trọng chính quyền Cộng sản Việt Nam, tuy nhiên việc Mỹ vẫn ủng hộ các tổ chức đối lập với nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục khiến Hà Nội nghi ngờ mục tiêu thật sự của Mỹ. Khác với Trung Quốc, Mỹ không phải chịu ảnh hưởng trực tiếp nếu cách mạng lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam nổ ra, do Mỹ ở rất xa.
Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường sẽ càng xác nhận với phía Việt Nam là Mỹ vẫn chưa đủ thiện chí để nâng cấp quan hệ hai nước thêm sâu rộng hơn, vì thật ra, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ hiện nay vẫn chưa có thực chất. Ông Tô Lâm thăm Mỹ với vai trò tổng bí thư sẽ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam tăng uy tín với chính giới Mỹ. Tuy vây, việc tăng uy tín đó có khiến Mỹ thôi ủng hộ các tổ chức chống nhà nước Việt Nam hay không thì chúng ta chưa thể biết rõ."
Tuy vậy, theo ghi nhận của nhà nghiên cứu James Borton, chuyến thăm gần đây của bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang tại Washington ngày 09/09/2024 có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ đối tác an ninh đang phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chuyến thăm nhằm mục đích tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai quốc gia, tập trung vào các lĩnh vực như an ninh hàng hải, hiện đại hóa quốc phòng và hoạt động gìn giữ hòa bình. Chuyến thăm cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì ổn định khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, nơi cả hai nước cùng chia sẻ mối quan tâm về tự do hàng hải và luật pháp quốc tế.
Nhưng với việc hai nước nay đã nâng quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện, liệu Việt Nam có thể dựa vào Mỹ nhiều hơn để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang đánh giá về khả năng đó:
"Nếu chúng ta nhìn cách Mỹ ủng hộ đồng minh Philippines ở Biển Đông thì sẽ thấy là Mỹ họ cũng ngại bị kéo vào tranh chấp lãnh thổ giữa đồng minh và Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc bắt nạt Philippines từ đầu năm đến nay rất nhiều, nhưng Mỹ đã không có hành động nào cụ thể để bảo vệ đồng minh. Việt Nam nên nhìn qua Philippines để hiểu là sẽ không dễ mà Mỹ can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ hay lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trái lại, việc Việt Nam không phải đồng minh với Mỹ lại có lợi cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyển trên biển, khi Trung Quốc im lặng và không bắt nạt Việt Nam, bất chấp Việt Nam đã cải tạo và bồi đắp đảo diện rộng lớn hơn Philippines rất nhiều. Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy là chỉ cần Việt Nam không liên minh với Mỹ thì họ có thể nhân nhượng trên biển, để Việt Nam cũng được có lợi.
Chưa kể trong tương lai sắp tới, khi cán cân sức mạnh quân sự trên Biển Đông ngày càng nghiêng về Trung Quốc, Mỹ sẽ càng ngại và càng khó mà hỗ trợ đồng minh và đối tác trong khu vực. Chỉ cần nhìn qua Philippines, Việt Nam nên thấy là quan hệ đồng minh với Mỹ sẽ không giải quyết được cả các vấn đề an ninh nổi cộm hiện nay."
Trong bài viết trên trang Geopolitical Monitor, nhà nghiên cứu James Borton nhấn mạnh kết quả cuộc bầu cử tổng thống tháng 11/2024 sẽ có tác động lớn đến quan hệ quốc tế của Mỹ, ảnh hưởng đến chính sách thuế quan và các hiệp định thương mại. Nếu phó tổng thống Harris đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, quan hệ Mỹ-Việt chắc là sẽ không có thay đổi đáng kể. Trong khi đó, dưới thời cựu tổng thống Donald Trump, Washington đã rút ra khỏi hiệp định tự do mậu dịch Đối tác xuyên Thái Bình Dương và thi hành một chính sách thiên về chống toàn cầu hóa và chống tự do mậu dịch. Nếu Donald Trump trở lại Nhà Trắng, quan hệ Mỹ - Việt có sẽ thay đổi nhiều? Liệu chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam, giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc đối địch, sẽ còn tác dụng đối với chính quyền Trump 2 hay không? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang nhận định:
"Hiện hãy còn quá sớm để đánh giá được chính sách đối ngoại của chính quyền Donald Trump nhiệm kỳ 2 đối với Việt Nam. Nhưng có một điểm khá là bất ngờ đối với nhiều học giả, đó là nếu nhìn vào chính sách ngoại giao của tổng thống Trump nghiệm kỳ thứ nhất, thì ông cũng không đi ngược lại những truyền thống ngoại giao của Mỹ đến mức trầm trọng như nhiều người dự đoán. Trong giai đoạn 2017-2021, chính quyền tổng thống Trump vẫn rất sẵn lòng tôn trọng chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam và cũng rất sẵn sàng tăng cường hợp tác quốc phòng với giữa hai nước. vẫn được chính quyền Trump hợp tác và ủng hộ . Do vậy, theo tôi, chính sách ngoại giao « cây tre » của Việt Nam vẫn sẽ hiệu quả đối với chính quyền Trump 2.
Tuy vậy, nếu quan hệ Mỹ-Trung trở nên trầm trọng hơn dưới nhiệm kỳ 2 của tổng thống Trump, rõ ràng là dư địa để Việt Nam có thể sử dụng ngoại giao "cây tre" nhằm cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc sẽ ngày càng hẹp lại."
Mon, 23 Sep 2024 - 190 - Việt Nam mua vũ khí lớn của Mỹ: Bước ngoặt trong quan hệ quốc phòng song phương?
Mỹ sẽ tặng Việt Nam tàu tuần duyên thứ ba từ nay đến cuối năm 2024. Washington được cho là đang đàm phán bán máy bay vận tải C-130J cho Hà Nội. Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Năm thăm Mỹ đúng kỉ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ song phương lên mức cao nhất - Đối tác chiến lược toàn diện. “Sự gia tăng hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong suốt năm qua” đã được bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin nhấn mạnh khi tiếp đồng nhiệm Phan Văn Giang ngày 09/09.
Tất cả những sự kiện này đánh dấu “giai đoạn mới trong hợp tác hữu nghị” giữa hai nước, cho đến nay “vẫn suôn sẻ và đi theo hướng mà cả hai nước đều mong muốn”. Để hiểu hơn về những chuyển biến mới trong quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt, đặc biệt là mức độ tin cậy nhau, RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.
RFI : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam vừa kết thúc chuyến thăm Hoa Kỳ. Có thể hiểu đây là một dấu hiệu mới cho việc thắt chặt quan hệ quốc phòng và an ninh song phương ?
Nguyễn Thế Phương : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Mỹ đợt này hơi đặc biệt tại vì chuyến thăm này khá dài, tầm 4-5 ngày, cho nên lịch trình sẽ dầy và tập trung nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở thời điểm hiện tại, chưa rõ cụ thể chương trình nghị sự của bộ trưởng Giang nhưng chuyến thăm này đánh dấu bước đi tiếp theo cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, bởi vì tháng 9 này kỉ niệm đúng một năm hai nước nâng cấp quan hệ.
Đọc thêm : Nâng quan hệ Mỹ-Việt lên Đối tác chiến lược: Lợi ích và trở ngạiỞ đây cần nhấn mạnh đến một số điểm. Thứ nhất, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ ở thời điểm hiện tại thường vẫn được nhấn mạnh đến quan hệ kinh tế và thương mại, còn quan hệ an ninh và quốc phòng thường được đặt bên dưới. Chuyến thăm Mỹ lần này của bộ trưởng Giang phần nào đó sẽ giúp cho Việt Nam hiểu được Mỹ sẽ muốn gì trong mối quan hệ an ninh quốc phòng giữa hai bên trong tương lai. Và cũng để cho phía Mỹ hiểu rõ hơn là Việt Nam thực sự muốn gì ở Mỹ, đặc biệt trong vấn đề giúp Việt Nam cải thiện một số năng lực, nhất là năng lực hàng hải, hoặc những chuyển động quốc phòng sâu sắc hơn trong tương lai cho xứng tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Đây là điểm mấu chốt trong chuyến thăm của bộ trưởng Giang.
Ngoài ra, có thể đây là chuyến thăm mở đường cho chuyến thăm của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sắp tới. Đây cũng là chuyến thăm để Việt Nam dò chính sách của Mỹ, đặc biệt trong bối cảnh chỉ còn hai tháng nữa là bầu cử tổng thống.
RFI :Năm 2023 từng có thông tin Việt Nam và Mỹ bàn khả năng mua sắm chiến đấu cơ F-16 nhưng đàm phán bị dừng lại. Hiện tại có thông tin Mỹ đang thảo luận với Việt Nam về việc bán máy bay vận tải quân sự Lockheed Martin C-130J Hercules cho Hà Nội. Tại sao lại có sự thay đổi này ? Liệuviệc mua máy bay, dù là máy bay vận tải, sẽ là một bước ngoặt cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ?
Nguyễn Thế Phương : Thông tin Việt Nam đàm phán với Mỹ về việc mua các loại vũ khí, khí tài của Mỹ, đặc biệt là F-16, đã xuất hiện từ cách đây 2, 3 năm chứ không phải là một vấn đề mới. Nhìn chung, nếu như Việt Nam mua vũ khí, khí tài của Mỹ thì đây cũng sẽ là một bước ngoặt. Đó sẽ là một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai bên được nâng lên một tầm mức mới, bởi vì để Việt Nam mua vũ khí của Mỹ thì mức độ lòng tin chiến lược trong an ninh quốc phòng giữa hai bên, đặc biệt là từ phía Việt Nam đối với Mỹ, đã được nâng lên một tầm mức nào đó rồi.
Việt Nam cũng đã chuẩn bị từ trước cho những quyết định mua sắm đó. Thứ nhất, Việt Nam gửi một số sĩ quan không quân, những đội hậu cần qua Mỹ để huấn luyện và học tập từ cách đây 2, 3 năm. Thứ hai, Việt Nam vừa mới khai trương một sân bay ở Phan Thiết. Người ta cho rằng sân bay này được dành cho việc triển khai một số loại máy bay huấn luyện sẽ mua của Mỹ trong tương lai. Có thể thấy Việt Nam đã chuẩn bị hết về nhân lực, cơ sở hạ tầng cho vấn đề mua sắm trang thiết bị vũ khí mà ở đây là các loại máy bay Mỹ.
Đọc thêm : Hoa Kỳ và Việt Nam thảo luận về việc mua bán máy bay vận tải quân sự C-130Thông tin Việt Nam mua máy bay F-16 của Mỹ bị dừng lại cũng không phải là điều quá bất ngờ: Thứ nhất, F-16 là một loại vũ khí mang tính tấn công mà ở thời điểm hiện tại, nếu Việt Nam mua của Mỹ thì sẽ rất nhạy cảm, đặc biệt là đặt trong mối quan hệ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố khác, mang tính kỹ thuật. Liệu hai bên có sẽ trao đổi vấn đề mang tính kỹ thuật về vũ khí, về bảo dưỡng, bảo trì không ? Đây cũng là điểm “nhạy cảm”. Việc Mỹ có cho phép mua vũ khí đi kèm hay không cũng là một chuyện cần bàn thảo sâu hơn trong tương lai. Hiện tại, những vấn đề đó dường như vẫn là những khúc mắc mà hai bên chưa giải quyết được.
Trong khi đó C-130 chỉ là một loại máy bay vận tải phi tác chiến. Cho nên việc Việt Nam có khả năng mua C-130 cũng có thể được giải thích theo hướng là sẽ giúp Việt Nam cải thiện năng lực phòng thủ, năng lực không vận, vốn là năng lực mà Việt Nam vẫn còn yếu. C-130 mang tính phòng thủ, không mang tính tấn công, bớt tính nhạy cảm và một phần nào đó cũng giúp cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong bối cảnh thâm hụt thương mại hiện nay nghiêng về Việt Nam quá lớn. Cho nên, mua sắm thêm vũ khí cũng là cách để Việt Nam gửi thông điệp rằng “chúng tôi muốn mở rộng hơn nữa hợp tác, đặc biệt là về thương mại”. Và trao đổi thương mại quốc phòng là một điểm mà Việt Nam đã và đang cân nhắc.
RFI : Việc Nga, nước cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, bị cấm vận và phải dồn toàn bộ nguồn lực quốc phòng cho chiến tranh ở Ukraina buộc Hà Nội phải tăng tốc đa dạng hóa nguồn cung, trong số này có vũ khí hệ phươngTây. Tuy nhiên, những nước này có cơ chế kiểm soát chặt chẽ vũ khí được bán. Vấn đề này sẽ tác động đến quá trình hợp tác với Việt Nam như thế nào ? Yếu tố “hoa hồng”, vẫn được các chuyên gia,nhà quan sát về quân sự Việt Nam nêu lên, có phải là một trở ngại khác ?
Nguyễn Thế Phương : Có hai yếu tố gây trở ngại chính. Thứ nhất là yếu tố mang tính hệ thống vì toàn bộ chu trình ra quyết định mua vũ khí nào và quy trình huấn luyện, bảo dưỡng bảo trì thì từ trước đến này, hệ thống, cấu trúc của Việt Nam luôn hướng về phía Nga. Cho nên hiện giờ, muốn đổi sang một hệ phương Tây khác thì toàn bộ quy trình đó phải được điều chỉnh và thay đổi. Và quá trình này tốn rất nhiều thời gian.
Thứ hai là vấn đề mang tính chính trị bởi vì tư duy quốc phòng, an ninh của Việt Nam hiện tại vẫn có một yếu tố nghi ngại phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng, cũng như các đồng minh của Mỹ. Đây là điểm có khả năng làm chậm lại quá trình tương tác giữa Việt Nam và các quốc gia phương Tây, đặc biệt là liên quan đến mua sắm vũ khí quốc phòng.
Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?Điểm thứ ba, rất cốt lõi, liên quan đến tài chính. Nguồn lực của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tài chính trong quá trình hiện đại hóa, rõ ràng là không lớn cho nên cũng phải “liệu cơm gắp mắm”. Tất cả những yếu tố đó, khi Việt Nam muốn xác định mua sắm, đều phải đặt lên bàn cân để xem mua của ai, được lợi gì và bất lợi gì, đặc biệt là với Mỹ. Như chị đề cập tới quy trình và đặc trưng của quy trình mua sắm vũ khí, khí tài, thì “văn hóa” giữa hai bên Mỹ-Việt Nam và Việt Nam với phương Tây là khác nhau. Thực ra, sự khác nhau này là có thể điều chỉnh được.
Nhưng như tôi đã đề cập, quá trình điều chỉnh văn hóa mua sắm và chính sách như này cần phải có nhiều thời gian và dựa trên niềm tin chính trị giữa hai bên, nhu cầu của Việt Nam và chính sách, cũng như chiến lược quốc phòng của Việt Nam hiện tại, chứ không hẳn là vũ khí phương Tây là tốt và cũng không hẳn là ở thời điểm hiện tại, Nga đang gặp khó khăn và Việt Nam không mua của Nga.
RFI : Phát biểu tại một sự kiện của Canergie, đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius từ năm 2014-2017 cho rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam “thực tế”, “có rất nhiều điều có thể thực hiện một cách thực dụng giúp tăng cường quan hệ đối tác” Việt-Mỹ, kể cả trong lĩnh vực an ninh, dù không cần liên minh hay căn cứ. Hai nước sẽ tính đến những hướng phát triển nào ? Liệu Washington cần tiếp tục kiên trì vì Hà Nội cần thời gian nếu nhìn vào sự cân bằng với Trung Quốc ?
Nguyễn Thế Phương : Trong chính sách đối ngoại và chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam dù sao cũng đóng một vai trò tương đối quan trọng trong tầm nhìn của Mỹ ở khu vực. Cho nên Mỹ sẽ cần phải có một mức độ kiên trì nhất định khi tương tác với các lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là các lãnh đạo bên quân đội.
Đọc thêm : Thêm Việt Nam, Mỹ mở rộng mạng lưới đối trọng với Trung Quốc ở Biển ĐôngĐối với Việt Nam, niềm tin chiến lược hiện tại giữa hai bên đã được cải thiện, nhưng không đi quá nhanh. Nhìn vào Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam, vấn đề mang tính diễn biến hòa bình, những vấn đề mang tính lật đổ hoặc đảm bảo nguyên chế độ vẫn là vấn đề an ninh hàng đầu. Khi nói đến những vấn đề đó, phương Tây và Mỹ là những “đối tượng rất lớn”, theo đúng cách dùng của ngôn ngữ chiến lược Việt Nam. Cho nên, để có mối quan hệ song phương bền vững và lâu dài với Việt Nam, Mỹ cần có sự kiên trì nhất định khi làm việc với Việt Nam, đặc biệt là trong những vấn đề mang tính nhạy cảm như an ninh và quốc phòng.
Ngoài ra, theo lời đại sứ Ted Osius, về vấn đề liên quan đến “thực tế”, các nhà lãnh đạo Việt Nam ở thời điểm hiện tại đã “thực tế” và “thực dụng” hơn rất nhiều so với các đây 20-30 năm, đặc biệt là trong giai đoạn trước và sau khi Liên Xô sụp đổ. Đó là giai đoạn vẫn còn nghi kị rất nhiều. Hiện tại, do sự chuyển dịch tư duy về chiến lược đặt phát triển kinh tế lên hàng đầu, để phát triển kinh tế, các nhà lãnh đạo phải “thực dụng” hơn nhưng không có nghĩa là họ không nghi ngờ, không phòng thủ trước những mối quan hệ với Mỹ và phương Tây. Phòng thủ ở đây không chỉ về mặt khác biệt và quan điểm chính trị, mà còn là sự đề phòng trong mối cân bằng ngoại giao với Trung Quốc. Đó là sự cân bằng giữa các nước lớn.
Đọc thêm : Việt - Mỹ thắt chặt quan hệ, không để Trung Quốc "lộng hành" ở Biển ĐôngCho nên, nói theo đại sứ Ted Osius cũng đúng, nhưng phải đặt trong toàn bộ bối cảnh tư duy chiến lược của Việt Nam hiện tại : Có sự cân bằng giữa các nước láng giềng, có yếu tố về mặt chính trị, một chút ý thức hệ và cũng có yếu tố thực dụng trong việc tăng cường quan hệ với Mỹ thì sẽ mở rộng hơn nữa khả năng của Việt Nam về mặt thương mại, tài chính và công nghệ. Đó là những lĩnh vực Việt Nam đang muốn đầu tư cho việc duy trì khả năng phát triển kinh tế trong tương lai.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.
Mon, 16 Sep 2024 - 189 - Trung Quốc cần một Việt Nam ổn định lãnh đạo, cân bằng giữa các cường quốc
Ông Tô Lâm, tổng bí thư, chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, là người triển khai chiến dịch "đốt lò" của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch dữ dội dường như khiến nước láng giềng Trung Quốc lo ngại về những "biến động chính trị chưa từng có ở Việt Nam". Việc một quan chức thuộc bộ Công An, không giàu kinh nghiệm đối ngoại, nắm giữ hai chức vụ cao nhất trên thượng tầng lãnh đạo cũng khiến Bắc Kinh không khỏi bồn chồn về đường lối "ngoại giao cây tre".
Tuy nhiên, khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc, trấn an rằng Hà Nội "luôn coi trọng và ưu tiên" quan hệ với Bắc Kinh.
Chuyến công du cấp nhà nước của ông Tô Lâm còn có ý nghĩa như nào trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước ? Trung Quốc trông đợi gì vào các nhà lãnh đạo Việt Nam ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
RFI : Khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thứ đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Liệu đây có phải là tín hiệu trấn an đến Bắc Kinh dù Hà Nội tăng cường mối liên hệ với Washington và nhiều nước đồng minh khác của Mỹ ?
Laurent Gédéon : Tôi nghĩ đây quả thực là một tín hiệu tích cực gửi đến Bắc Kinh. Theo tôi, có 5 yếu tố cho thấy điều này. Thứ nhất, chuyến thăm cấp Nhà nước của ông Tô Lâm tại Trung Quốc từ ngày 18 đến 20/08/2024 nằm trong khuôn khổ tiếp nối chính sách về Trung Quốc được người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng gây dựng. Ông Trọng đã công du Trung Quốc tháng 10/2022.
Thứ hai, chuyến thăm này còn có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước tiên, ông Tô Lâm là nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam, từ thời Hồ Chí Minh, đến Trung Quốc với tư cách vừa là chủ tịch nước vừa là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Tiếp theo, lễ đón tiếp long trọng ông Tô Lâm đã cho thấy chính quyền Trung Quốc coi trọng sự kiện này như thế nào (21 phát đại bác được bắn để chào mừng ông Lâm, đích thân ngoại trưởng Vương Nghị đón ông ở sân bay). Cuối cùng, năm 2024-2025 mang đầy ý nghĩa biểu tượng mạnh vì năm 2024 kỷ niệm tròn 100 năm chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Quảng Đông và năm 2025 sẽ đánh dấu 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như kỷ niệm 95 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thứ ba, phải nhắc đến những phát biểu mạnh mẽ từ cả hai phía nhấn mạnh đến quan hệ mật thiết Việt-Trung. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc đến sự hình thành một “cộng đồng chung vận mệnh có tầm quan trọng chiến lược giữa Trung Quốc và việt Nam” và nói thêm rằng Bắc Kinh “luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng”. Còn ông Tô Lâm trấn an người đồng cấp Trung Quốc rằng đảng và đất nước Việt Nam “luôn coi sự phát triển mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên tuyệt đối trong chính sách đối ngoại”.
Đọc thêm : Tổng bí thư Việt Nam Tô Lâm đi Trung Quốc, chuyến công du nước ngoài đầu tiên từ khi nhậm chứcThứ tư là có mối quan hệ chặt chẽ về ý thức hệ giữa hai chế độ. Điểm này được xác nhận trong tuyên bố chung ngày 20/08 nhấn mạnh rằng “hai nước cam kết tăng cường trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm về mặt chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống “cách mạng màu”, cùng bảo vệ an ninh chính trị và an toàn cho chế độ (…)”. Cũng như “hai bên đề cao trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền dựa trên công bằng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối mạnh mẽ “chính trị hóa”, “công cụ hóa” và tiêu chuẩn kép trong vấn đề nhân quyền, đồng thời kiên quyết phản đối việc lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”.
Thứ năm là có sự hòa hoãn tương đối ở cấp độ quân sự. Tuyên bố chung nhấn mạnh : “Hai bên khẳng định hợp tác quốc phòng - an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt-Trung ; nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh ; tăng cường giao lưu các cấp giữa quân đội hai nước ; làm sâu sắc giao lưu biên phòng, hải quân, cảnh sát biển”.
RFI : Nhìn rộng hơn, những yếu tố tích cực đó diễn ra trong bối cảnh như thế nào ?
Laurent Gédéon : Khía cạnh tích cực đó diễn ra trong bối cảnh chung, được đánh dấu bởi ba hạn chế quan trọng đối với Việt Nam.
Hạn chế thứ nhất là kinh tế. Nổi bật trong tình hình hiện nay là sự phụ thuộc ngày càng lớn từ một thập niên qua của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến từ Trung Quốc bởi vì các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển dịch sản xuất để tránh thuế quan của Mỹ. Khối lượng nhập khẩu có nguồn gốc Trung Quốc đã tăng từ gần 30 tỉ đô la vào năm 2013 lên thành 110 tỉ đô la vào năm 2023 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 15 tỉ lên thành 60 tỉ trong cùng thời điểm.
Yếu tố thứ hai là những bất trắc liên quan đến Hoa Kỳ. Trước những bất trắc về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới, Hà Nội phải cân nhắc cách hợp tác về kinh tế và quân sự với Donald Trump hoặc Kamala Harris năm 2025. Thêm vào đó là việc xích lại gần với Mỹ luôn được đặt trong điều kiện cơ bản của Việt Nam là bảo toàn chế độ cộng sản. Đây là một điểm khiến Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh. Tuy nhiên một bộ phận trong giới chính trị Mỹ lại rất nhạy cảm về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, các quyền tự do cá nhân, cho nên tỏ ra nghi ngờ về chính sách tăng cường hợp tác an ninh đang được triển khai với Việt Nam. Sự ngờ vực tiềm ẩn này cản trở sự xích lại gần nhau giữa hai nước.
Yếu tố thứ ba là sự bó buộc về địa lý. Có chung 1.400 km đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Việt Nam phải tính đến sự gần gũi về mặt địa lý này và điều này cũng tiềm ẩn việc Trung Quốc luôn có khả năng gây áp lực đối với Việt Nam.
Đọc thêm : Tô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bảnRFI : Ngoài ra, liệu chuyến thăm cũng là cách để trấn an Bắc Kinh về sự ổn định chính trị sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam có lãnh đạo mới và hàng loạt xáo trộn trong chính phủ do chiến dịch chống tham nhũng ?
Laurent Gédéon : Đây là một giả thuyết không thể loại trừ. Bắc Kinh bận tâm rõ ràng đến việc Việt Nam và Mỹ sưởi ấm mối quan hệ, cũng như cuộc chống tham được tiến hành dưới thời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch này đã khiến 7 thành viên trên tổng số 18 ủy viên Bộ Chính Trị năm 2021 bị khai trừ và hai người tiền nhiệm của chủ tịch nước Tô Lâm bị cách chức, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng.
Chiến dịch chống tham nhũng này cũng gây ra nhiều quan ngại về khả năng một cuộc khủng hoảng kế thừa quyền lực, cũng như gia tăng bất ổn thường trực. Trung Quốc dè chừng một nước Việt Nam bất ổn ngay sát biên giới sẽ có thể trở thành cửa ngõ cho các thế lực có khả năng thù nghịch với Bắc Kinh.
Tình hình hiện này dường như đã được ổn định. Hiện giờ Bộ Chính Trị có 16 thành viên, trong đó có 5 người đến từ bộ Công An và 3 người thuộc Quân Đội. Sự phân chia này cho thấy rõ là trọng tâm giờ đây được tập trung vào việc kiểm soát xã hội và an ninh. Thông qua đó cũng có thể thấy một thông điệp nhằm trấn an các đối tác về sự ổn định chính trị trong tương lai của đất nước.
Tuy nhiên, dù chiến dịch chống tham nhũng có vẻ đã đạt được mục đích là củng cố quyền lực của ông Tô Lâm nhưng vẫn phải tính đến khả năng các bên đối lập trong nội bộ đảng hợp lực lại để phản đối việc xác nhận ông Lâm làm người kế nhiệm ông Trọng trong đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 14 sẽ diễn ra vào năm 2026. Do đó, giai đoạn tiếp theo này chắc chắn sẽ được Bắc Kinh đặc biệt chú ý.
Đọc thêm : Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre”
RFI : Trung Quốc trông đợi những gì vào các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam ?
Laurent Gédéon : Tôi nghĩ trước tiên phải nói một chút về tổng quan tình hình địa-chính trị chung của Trung Quốc bối cảnh chính trị tế nhị trên thế giới hiện nay. Bắc Kinh chọn xích lại gần với một loạt quốc gia, kể cả Nga. Mục đích là để lật lại trật tự thế giới có từ thời Thế Chiến II mà họ coi là do phương Tây chiếm lĩnh. Hơn nữa, ý định xem xét lại trật tự vốn có đó đã được Bắc Kinh tái khẳng định nhiều lần, như trong chuyến thăm chính thức Trunng Quốc của tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 05/2024.
Lập trường này của Trung Quốc lại vấp phải sức ép ngày càng lớn từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh ở châu Á, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines. Thêm vào đó phải kể đến tranh luận hiện tại về việc mở rộng khối NATO sang Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thay đổi về tầm nhìn chiến lược của Mỹ dường như ngày càng coi Trung Quốc và Nga là một khối đồng nhất và cần phải có cách đáp trả toàn diện.
Trên thực địa, sức ép của Mỹ ngày càng gia tăng từ nhiều tháng qua, thông qua các cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn Quốc-Nhật Bản, một chính sách mang tính chủ động hơn của Philippines hoặc sự ủng hộ ngày càng rõ ràng của Washington đối với Đài Loan. Trong bối cảnh đó, điều quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là không muốn thấy bùng thêm một điểm căng thẳng mới có thể tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp vào khu vực.
Chính vì thế Bắc Kinh coi trọng việc củng cố quan hệ chính trị và chiến lược với Hà Nội, phát triển mối liên hệ hài hòa với nước láng giềng. Trông đợi này của Trung Quốc dường như gặp được phản hồi tích cực từ Hà Nội thông qua hàng loạt cử chỉ thiện chí. Đối với Trung Quốc, việc Việt Nam duy trì chính sách cân bằng ngoại giao giữa các cường quốc chắc chắn là giải pháp tốt nhất. Và đây là việc mà Việt Nam tiến hành vì là nước duy nhất đón nguyên thủ của cả ba cường quốc quân sự Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga chỉ trong một năm.
Đọc thêm : Biển Đông : Việt Nam - Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp thông qua “hiệp thương hữu nghị”Ngoài ra, chính sách "Bốn Không" được nêu rõ trong Sách trắng Quốc phòng 2019 (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) đảm bảo chắc chắn với Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ không phải là bên tham gia vào một cuộc xung đột, ví dụ có thể là giữa Trung Quốc và Philippines hoặc thậm chí là giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay Trung Quốc và Mỹ.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
Mon, 09 Sep 2024 - 188 - Pháp hỗ trợ Việt Nam phát triển hydrogen xanh
Với nguồn tài nguyên biển phong phú cùng điều kiện nắng và gió thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm sản xuất hydrogen xanh hàng đầu ở châu Á, qua đó giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhiên liệu hóa thạch. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần đến sự trợ giúp của các nước phát triển, trong đó có Pháp.
Hydrogen xanh là một loại hydrogen được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời và gió. Khác với hydro "xám", quá trình sản xuất hydro xanh sử dụng điện năng để điện phân nước, tách nước thành hydro xanh và oxygen, không phát thải CO2 và các chất ô nhiễm khác. Các lợi ích về môi trường và tính linh hoạt của nó trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, công nghiệp và sản xuất điện khiến hydro xanh ngày càng trở nên quan trọng khi các quốc gia nỗ lực đạt được mục tiêu trung hòa cacbon, như mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết cho năm 2050
Trả lời RFI Việt ngữ từ Jakarta ngày 26/08/2024, ông Mathieu Geze, giám đốc đặc trách khu vực châu Á của công ty Hydrogène de France ( HDF Energy ), một trong những công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen, nhận định về tiềm năng phát triển hydrogen xanh của Việt Nam:
“Hydrogen có thể được sản xuất từ những nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời hoặc gió. Việt Nam có những tiềm năng rất lớn về hai loại năng lượng này, nên cũng có tiềm năng lớn về hydrogen xanh, mà công ty HDF Energy của chúng tôi cố gắng giúp khai thác.
Nói chung, tiềm năng về hydrogen là rất lớn trong lĩnh vực hóa dầu, cụ thể là tập đoàn Petrovietnam với một số nhà máy lọc dầu của công ty này, hay các nhà máy dùng hydrogen để sản xuất một số sản phẩm như phân bón.
Hiện nay, hydrogen xám chủ yếu được sản xuất từ khí đốt. Nhưng trong tương lai, nhờ tiềm năng về năng lượng tái tạo, ta có thể sản xuất hydrogen xanh để phi cacbon hóa những ngành như ngành hóa dầu, hay ngành giao thông, như xe lửa. Chẳng hạn như Công ty Đường sắt Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng các đầu máy chạy bằng diesel. Hydrogen có thể đóng một vai trò trong việc kéo dài tuổi thọ của một số đầu máy, đồng thời góp phần phi cacbon hóa ngành này.
Về phần công ty HDF Energy, trong giai đoạn đầu, chúng tôi cố gắng giúp phi cacbon hóa ngành điện. Việt Nam có những vùng xa xôi hẻo lánh, chẳng hạn như các đảo thuộc tỉnh Kiên Giang, nơi mà hydrogen có thể được dùng để tích trữ một cách ổn định các nguồn năng lượng tái tạo. Cụ thể, nguồn điện từ năng lượng Mặt trời hay năng lượng gió có thể không ổn định, vì nắng lúc có lúc không, gió thì lúc mạnh lúc yếu. Hydrogen có thể được sử dụng để tích trữ lượng điện đó và cung cấp cho mạng lưới điện những khi thiếu nắng và gió.”
Với những tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và năng lượng Mặt Trời, Việt Nam đã phê duyệt chiến lược quốc gia phát triển hydrogen xanh đến năm 2050. Mục tiêu cụ thể là sản xuất từ 100.000 đến 500.000 tấn hydrogen xanh từ đây đến năm 2030, để sau đó đạt được sản lượng từ 10 đến 20 triệu tấn từ đây đến năm 2050.
Chính phủ Việt Nam hiện đang tìm các nhà đầu tư ngoại quốc có thể hỗ trợ tài chính cho việc sản xuất hydrogen xanh qua nhiều nguồn năng lượng khác nhau, không chỉ có năng lượng gió, năng lượng Mặt trời, mà cả than đá, dầu hỏa và khí đốt. Theo dự báo của chính phủ Hà Nội, hydrogen xanh sẽ đáp ứng 10% nhu cầu tiêu thụ năng lượng của Việt Nam từ đây đến năm 2050. Ông Mathieu Geze, giám đốc châu Á của HDF Energy nhận định về mục tiêu này:
“Tôi nghĩ là có thể đạt được mục tiêu đó, vấn đề chủ yếu chỉ là thời gian. Nhưng do có tiềm năng rất lớn về điện Mặt trời và điện gió, do nhu cầu phải phi cacbon hóa đất nước, do phải đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng cùng với đà phát triển của kinh tế, công nghiệp, hydrogen có thể góp phần đáp ứng nhu cầu đó. Tỷ lệ 10% theo tôi là một mục tiêu khả thi”.
Pháp là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen xanh tính theo số lượng sáng chế, nghiên cứu, phát triển, sản xuất trang thiết bị và doanh nghiệp ở mọi quy mô. Công ty Pháp HDF Energy đã hợp tác với Việt Nam từ vài năm nay trở lại đây. Mới đây, công ty này đã đưa vào hoạt động một nhà máy sản xuất pin nhiên liệu ( fuel cell ) tại vùng ngoại ô thành phố Bordeaux.
Giám đốc châu Á của HDF Energy Mathieu Geze nêu bật những khả năng hợp tác giữa Pháp với Việt Nam về hydrogen xanh:
“Nói chung, nước Pháp có những công ty hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng, như Tập đoàn Điện lực Pháp EDF, nếu tôi không lầm thì đã có mặt ở Việt Nam từ nhiều năm qua, hoặc là những công ty khác cũng có thể có tham vọng đầu tư vào Việt Nam. Như vậy nước Pháp có thể đóng vai trò quan trọng với khả năng đầu tư, kỹ thuật, để hỗ trợ Việt Nam, đặc biệt là về thủy điện hay về điện hạt nhân.
Riêng công ty HDF sẽ tập trung vào những dự án mà chúng tôi có thể chuyển giao các kỹ năng quan trọng cho phía Việt Nam, khác với những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, hay một số đảo, nơi mà một phần của hệ thống điện phụ thuộc nhiều vào các máy phát điện chạy bằng diesel”.
Có mặt tại Việt Nam từ năm 2022, HDF Energy đã triển khai nhiều dự án hợp tác với các Bộ Công Thương, Bộ Giao Thông Vận Tải, Tập đoàn Đường sắt và Tập đoàn Điện lực Quốc gia. Công ty cũng có ký kết, làm việc, hoặc trao đổi phát triển các dự án ở nhiều tỉnh thành như Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, là những địa phương có tiềm năng lớn trong phát triển năng lượng tái tạo như điện gió ngoài khơi, điện gió trên đất liền, hay điện Mặt trời.
Đây cũng chính là những nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất hydrogen "xanh" phục vụ ngành giao thông vận tải. Đặc biệt, HDF Energy đã làm việc với Công ty Đường sắt Việt Nam để nghiên cứu cơ hội chuyển đổi gần 200 động cơ diesel cũ đã vận hành từ cách đây hàng chục năm, chuyển sang sử dụng hydrogen. Về dự án này, ông Mathieu Geze cho biết:
“Nói chung chúng tôi có tham vọng hỗ trợ ngành đường sắt để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng của ngành này tại Pháp và tại nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi thấy nhiều đầu máy xe lửa còn phụ thuộc vào động cơ diesel, vì cần phải đầu tư rất nhiều cho việc điện hóa các tuyến xe lửa. Một số tuyến có nhu cầu rất hạn chế hoặc rất khó lấy lại vốn khi đầu tư vào. Hydrogen sẽ là một giải pháp đơn giản để phi cacbon hóa các đầu máy đó bằng cách, nói theo tiếng Anh, retrofit chúng, thay thế động cơ diesel bằng động cơ chạy điện. Vì lý do bảo mật, tôi không thể nói chi tiết hơn, nhưng chúng tôi đang nghiên cứu các dữ liệu để xác nhận tiềm năng đó tại một số nơi ở Việt Nam.”
Đối với ông Mathieu Geze, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện nay đã đủ thuận lợi cho việc phát triển hydrogen xanh:
“Đây vẫn là những vấn đề rất phức tạp ở tất cả các nước mà các nhà công nghiệp, các nhà đầu tư vẫn trông chờ một sự yểm trợ về mặt chính trị, thể hiện qua một khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các dự án.
Cá nhân tôi thì nghĩ rằng dù trong khuôn khổ pháp lý như thế nào, các nhà phát triển dự án, các nhà đầu tư, các nhà công nghiệp cũng nên tỏ ra thực dụng. Nếu dự án được xem là đáng giá về mặt kinh tế, về mặt kỹ thuật, tôi có thể chắc chắn là dự án đó sẽ được sự hỗ trợ của chính quyền, dù ở cấp quốc gia, với bộ Công Thương hay ở cấp địa phương với chính quyền các tỉnh.
Tôi nghĩ là các quy định luật lệ hiện nay ở Việt Nam đủ để chúng tôi có thể đề xuất các ý tưởng, các dự án và thực hiện các ý tưởng, dự án đó. Nếu trong tương lai các nhà lập pháp hỗ trợ mạnh hơn đối với các năng lượng tái tạo thì càng tốt”.
Mon, 02 Sep 2024 - 187 - Chống tham nhũng và độc quyền công nghệ Trung Quốc: Hai hạn chế đối với khai thác đất hiếm Việt Nam
Việt Nam có trữ lượng khoảng 22 triệu tấn đất hiếm và chiếm 18% tổng lượng thế giới nhưng trong suốt nhiều năm lại không khai thác, xuất khẩu tương xứng với tiềm năng. Trước nhu cầu ngày càng tăng và chủ trương giảm phụ thuộc vào nguồn cung Trung Quốc của nhiều nước, đất hiếm ở Việt Nam ngày càng được quan tâm.
Tháng 06/2024, chính phủ tuyên bố « nhất quyết không xuất khẩu đất hiếm thô ». Tuy nhiên, sẽ mất bao lâu để thực hiện được ý định này trong khi các nhà đầu tư vào Việt Nam lại không làm chủ được công nghệ tinh luyện mà trung Quốc nắm giữ ?
Trên đây là nhận định của phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS, khi trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt, ngày 10/07/2024. Đồng thời, chuyên gia Mottet còn nhấn mạnh đến chiến dịch chống tham nhũng, được coi là yếu tố thứ hai có thể tác động đến lĩnh vực khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Sự kiện mới nhất là ông Nguyễn Linh Ngọc, nguyên thứ trưởng bộ Tài Nguyên Môi Trường bị khởi tố ngày 22/07/2024 liên quan đến Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương, gây thát thoát khoáng sản của Nhà nước với trị giá ước tính trên 600 tỷ đồng.
RFI : Theo báo cáo năm 2022 của Viện Geological Survey của Mỹ, tổng khối lượng đất hiếm của Việt Nam chiếm khoảng 18% tổng lượng trên thế giới, kể cả đất hiếm nặng và nhẹ. Có thể tìm thấy đất hiếm tại những vùng nào ở Việt Nam ?
Éric Mottet : Tại Việt Nam, đất hiếm nằm ở nhiều nơi. Trước tiên là ở phía tây bắc, nơi có một trong những mỏ đất hiếm lớn nhất Việt Nam, cho đến giờ vẫn gần như chưa được khai thác. Đất hiếm còn nằm ở vùng cao nguyên miền trung và dọc bờ biển, gần như từ bắc xuống nam. Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đất hiếm vốn rất dồi dào, dễ khai thác. Nhưng sự khác biệt, hoặc nói một cách khác là vấn đề duy nhất nằm ở công nghệ để tinh luyện chúng.
Như câu hỏi đã nêu, đất hiếm ở Việt Nam chiếm khoảng 18% trữ lượng thế giới. Đó là con số rất lớn, được coi là nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, với giá trị được thẩm định gần 3.000 tỉ đô la Mỹ. Con số này lớn gần gấp 10 lần GDP Việt Nam. Nhưng hiện giờ, những mỏ đất hiếm này hầu hết chưa được khai thác. Việt Nam là một nhà sản xuất đất hiếm nhưng theo tôi, chỉ là một nhà sản xuất vô cùng nhỏ, vì mới chỉ khai thác được khoảng 600 tấn/năm. Năng suất này thấp hơn rất nhiều lần so với Trung Quốc, thậm chí thấp hơn cả Miến Điện, nước khai thác 38.000 tấn hàng năm.
Dù sao, đất hiếm ở Việt Nam có tiềm năng đáng kể mà rất nhiều nước phương Tây đang nhìn với con mắt ghen tị.
RFI :Ngay năm 2014, một số giấy phép khai thác đất hiếm đầu tiên đã được cấp nhưngdường nhưhoạt động khai thác không được tiến triển.Những nguyên nhân, yếu tố nàocó thể giải thích cho tình trạng này?
Éric Mottet : Có nhiều lý do. Chúng ta đừng quên là đất hiếm, nhất là ở tây bắc Việt Nam, đã được hai công ty Nhật Bản khai thác cho đến năm 2015. Nhưng việc Trung Quốc có quá nhiều đất hiếm, khiến giá sụt thê thảm nên việc khai thác ở Việt Nam không đem lại lợi nhuận và buộc các công ty Nhật Bản rút khỏi dự án từ những năm 2014, 2015. Liên quan đến Việt Nam, các nhà đầu tư bị nản lòng vì giá thấp và thế gần như độc quyền của Trung Quốc trên thị trường đất hiếm. Đối với nhiều nhà đầu tư, việc khai thác đất hiếm bị coi là mang lại ít lợi nhuận. Đó là lý do thứ nhất khiến đất hiếm rất ít được khai thác ở Việt Nam.
Tuy nhiên, từ năm 2023, thủ tướng Việt Nam đã công bố một quyết định thông qua kế hoạch thăm dò, tiếp theo là khai thác đất hiếm ở quy mô lớn. Chính phủ có ý định mời thầu vào cuối năm 2023, đầu năm 2024, nói theo cách khác là để “bán” nhiều lô trong mỏ Đông Pao ở vùng núi tây bắc. Theo lịch trình là tái khởi động vào cuối năm 2024 với dự kiến khai thác 10.000 tấn đất hiếm mỗi năm. Một số doanh nghiệp nước ngoài đã đặt sẵn bản doanh, ví dụ tập đoàn Úc Blackstone, hoặc nhiều hợp tác đang được thảo luận ít nhiều với Hàn Quốc.
Nhưng mọi chuyện dần bị dừng lại vào tháng 10, 11/2023 bởi vì chiến dịch chống tham nhũng trong các doanh nghiệp Việt Nam đã gây ra nhiều thiệt hại, kể cả trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của ngành công nghiệp mỏ khoáng sản, cũng như trong các công ty đang khai thác đất hiếm. Các vụ bắt giữ đã cản trở phần lớn những dự án của chính phủ, xin nhắc lại ở đây, là nhằm bán đấu giá những khu nhượng quyền khai thác mới cho những công ty Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp Úc và Hàn Quốc. Vì thế tôi cho rằng ngành công nghiệp này hiện giờ có phần bất trắc. Các nhà đầu tư nước ngoài lưỡng lự đầu tư vào khai thác đất hiếm ở Việt Nam.
Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn giữ kế hoạch chỉ đạo, muốn tiếp tục và muốn khoảng 2 triệu tấn đất hiếm được khai thác vào khoảng năm 2030. Nhưng tôi xin nhắc lại là vì hai lý do chính - chi phí khai thác thấp ở Trung Quốc và chiến dịch chống tham nhũng cùng với những vụ bắt giữ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khai thác, quản lý ngành công nghiệp mỏ và khoáng sản ở Việt Nam - cho nên những dự án được thông báo năm 2023 hiện giờ (năm 2024) đã bị đình chỉ.
Rất khó để biết được lý do chính xác khiến nhiều cán bộ hoặc lãnh đạo cấp cao của công ty quốc doanh, bán quốc doanh, tư nhân ở Việt Nam bị bắt vì tham nhũng. Tuy nhiên, có một vài thông tin được tiết lộ về một doanh nghiệp và các vụ biển thủ công quỹ của họ.
Thứ hai, Việt Nam có nhiều quy định hiện hành, khá là chặt chẽ về xuất khẩu khoáng sản thô ra nước ngoài. Và một trong hai doanh nghiệp quản lý đất hiếm dường như đã xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc để tinh chế đất hiếm ở đó. Tại sao doanh nghiệp đó lại làm như vậy ? Đó là vì họ cho rằng chi phí thì cao, còn khả năng tinh chế ở Việt Nam còn quá yếu nên họ phải chuyển hướng sang Trung Quốc và người phụ trách đó đã bị bắt. Cho nên có thể thấy có hai lý do : biển thủ công quỹ và xuất khẩu đất hiếm trái phép ra nước ngoài, nhất là sang Trung Quốc.
RFI : Chính phủ Việt Nam khẳng định không xuất khẩu đất hiếm dạng thô. Việt Nam sẽ phải cải thiện những gì và cần hỗ trợ như thế nào để đạt được mục tiêu này ?
Éric Mottet : Quy định hiện hành của Việt Nam về xuất khẩu khoáng sản thô đã được thắt chặt hơn rất nhiều bởi vì Hà Nội đặt mục tiêu triển khai lĩnh vực tinh chế ở trong nước. Nhưng Việt Nam lại phải đối phó với rất nhiều thách thức lớn về năng lực, công nghệ, kỹ thuật tinh chế. Việt Nam muốn hình thành một dây chuyền khép kín từ khai thác đến tinh luyện đất hiếm nhưng vấn đề đầu tiên của Viện Nam hiện giờ là phải phát triển được năng lực tinh chế khoáng sản. Đó lại là cả một quá trình phải làm trong hợp tác với các doanh nghiệp Úc, Hàn Quốc.
Dù sao cũng có một tin vui, đó là chuyến công du Việt Nam năm 2023 của tổng thống Mỹ Joe Biden. Hà Nội và Washington đã ký một thỏa thuận nhằm tăng cường năng lực của Việt Nam, nhất là về thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khai thác đất hiếm. Nhưng Hoa Kỳ cũng không phải là một nước làm chủ được công nghệ tinh chế đất hiếm, bởi vì phần lớn khối lượng đất hiếm được khai thác ở Mỹ, nhất là ở bang California, cũng lại được chuyển sang Trung Quốc để tinh chế.
Vấn đề hiện nay đối với Việt Nam là họ muốn phát triển một lĩnh vực với các đối tác phương Tây, như Úc, Mỹ hoặc ở trong khu vực như Hàn Quốc, nhưng những nước này cũng không làm chủ hoàn toàn được công nghệ tinh chế hoặc tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp. Cho nên có thể thấy là Việt Nam phần nào bị bí. Họ muốn phát triển khả năng tinh luyện đất hiếm nhưng lại không dựa vào đúng đối tượng.
Bắc Kinh hiểu rõ vấn đề của Việt Nam và đánh tiếng với chính phủ Việt Nam rằng quốc gia tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp chỉ có Trung Quốc và nếu Việt Nam muốn phát triển lĩnh vực này thì phải hướng sang Trung Quốc. Nhưng đây là điều mà hiện giờ chính phủ Việt Nam chưa tính đến.
RFI :Như ông vừa nêu, nhiều công ty nước ngoài đã quan tâm đến việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ vẫn chỉ ở giai đoạn thăm dò, nghiên cứu. Liệu có thể hy vọng là sẽ có nhiều tiến triển trong thời gian tới ? Những yếu tố nào có thể tác động đến những tiến bộ đó ?
Éric Mottet :Người ta từng nghĩ rằng mọi chuyện sẽ tiến triển trong năm 2023, 2024. Vì những lý do mà tôi đã nêu ở trên, nhất là chiến dịch chống tham nhũng trong các ngành công nghiệp và lĩnh vực khai thác mỏ ở Việt Nam, nên mọi chuyện bị chậm lại.
Tuy nhiên, có một yếu tố có thể thúc đẩy tình hình, đó là Hoa Kỳ muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển lĩnh vực đất hiếm này. Mỹ đã đề xuất, đã ghi trong khuôn khổ một thỏa thuận là giúp Việt Nam lập bản đồ các nguồn trữ đất hiếm vì thường thì việc này sẽ cho phép thu hút các nhà đầu tư chất lượng vào Việt Nam. Mỹ muốn giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp này cũng là để giúp Mỹ giảm phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc về đất hiếm. Phía Hoa Kỳ thực sự tỏ thiện chí giúp đỡ Việt Nam phát triển ngành này. Đây là điều có thể coi là rất tích cực và tôi nghĩ đó là một yếu tố quan trọng trong tương lai đối với ngành khai thác đất hiếm ở Việt Nam.
Nhưng tôi cũng xin nhắc nhắc lại là Việt Nam đang dựa vào những đối tác mà hiện giờ chưa làm chủ hoàn toàn công nghệ chế biến đất hiếm. Thêm vào đó còn có một trở ngại khác. Đó là Trung Quốc, nước từng đề xuất giúp đỡ Việt Nam phát triển những công nghệ khác nhau trong các khâu khai thác, chế biến, xử lý và tinh chế đất hiếm, vào tháng 12/2023 đã quyết định ngừng xuất khẩu một phần công nghệ này ra nước ngoài để giữ phần nào độc quyền và vai trò quan trọng về lĩnh vực này.
Hiện giờ, Việt Nam bị kẹt giữa một bên là các nước phương Tây muốn giúp Việt Nam và muốn đầu tư nhưng lại không hoàn toàn yên tâm về kế hoạch chính sách ở Việt Nam và họ cũng không hẳn làm chủ công nghệ và bên kia là Trung Quốc, nước không còn muốn xuất khẩu công nghệ của họ ra nước ngoài, trong đó có thể có Việt Nam.
Có thể thấy là trong những năm 2023, 2024 có rất nhiều lạc quan về vấn đề đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ, tôi cho rằng lạc quan đó đã bớt đi phần nào so với chỉ cách đây vài tháng.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS.
Mon, 26 Aug 2024 - 186 - San hô ở Việt Nam trước thảm họa tẩy trắng hàng loạt
Theo các cơ quan bảo tồn sinh vật biển, Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều loài san hô đa dạng nhất thế giới. Tuy nhiên, hệ sinh thái rất quan trọng này đang bị suy thoái nghiêm trọng cả về số lượng, chất lượng, do tác động từ các hoạt động của con người ( du lịch, ô nhiễm biển ), cũng như do tác động của biến đổi khí hậu. Tác động của biến đổi khí hậu đáng lo ngại hơn cả là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt các rạn san hô.
Vùng biển Việt Nam hiện đang tập trung khoảng 340 loài san hô trong tổng số 800 loài của thế giới, phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Rạn san hô biển tập trung với mật độ cao ở vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa, biển Hòn Mun (Khánh Hòa). Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tổng cục Biển đảo Việt Nam, hiện Việt Nam chỉ còn 1% trong số 1.300km2 rạn san hô dọc bờ biển đang trong tình trạng rất tốt; 26% các rạn san hô trong điều kiện tốt; 41% các rạn san hô trung bình, còn lại 31% là các rạn san hô nghèo.
Ðiều đáng lo ngại đó là hiện có 96% các rạn san hô trên khắp vùng biển cả nước đang hứng chịu tác động từ các hoạt động khai thác của con người, trong đó gần 75% các rạn có mức độ rủi ro cao và rất cao bởi tình trạng khai thác mang tính hủy diệt. Đi cùng với sự suy thoái của san hô là sự biến mất của nhiều loài sinh vật biển quý.
Lê Chiến, nhà sáng lập Trung tâm Cứu hộ Sinh vật biển SASA, một tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam chuyên giải cứu các sinh vật biển và hồi sinh các rạn san hô bị hư hại tại bờ biển miền trung Việt Nam, cho biết về hiện trạng của san hô Việt Nam, đặc biệt là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ( mass bleaching ):
“Mass bleaching, tẩy trắng hàng loạt, có nghĩa là tẩy trắng trên một diện rất rộng trên một số loài, đặc biệt là loài tạo dạng quan trọng, những loài có mật độ rất lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành rạn tại Việt Nam, cũng như tại châu Á-Thái Bình Dương nói chung.
Hiện tại rất nhiều nơi ở Việt Nam, san hô đã bị tẩy trắng hàng loạt. Đấy chính là nguy cơ lớn nhất, chứ còn bây giờ vấn đề phá hoại bởi du lịch không còn là trọng tâm nữa. Hiện chúng tôi ghi nhận hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ở một số tỉnh Nam Trung Bộ như Ninh Thuận, Bình Thuận và vịnh ở Côn Đảo, vịnh Thái Lan, Phú Quốc. Đó là ghi nhận trong khả năng của chúng tôi. Có thể có những tỉnh khác cũng bị như vậy, nhưng chúng tôi chưa có điều kiện để đi khảo sát. Rất may là ở khu vực Trung Trung Bộ và Bắc Trung Bộ thì chưa thấy bị ảnh hưởng, nhưng nhiệt độ nước biển thì hiện cũng khá là cao.”
Cũng theo anh Lê Chiến, về mặt lý thuyết, có những phương pháp giúp đảo ngược tình trạng tẩy trắng hàng loạt san hô ở Việt Nam, nhưng trên thực tế không đơn giản chút nào:
“Trong những phương pháp tái tạo san hô, có việc gây dựng vườn ươm con giống san hô ( coral garden ), nếu không thì chỉ là transplantation, tức là di chuyển san hô từ điểm A sang điểm B. Giống như trên hai cánh rừng, một cánh rừng trọc và một cánh rừng xanh. Nếu chúng ta lấy cây bên rừng xanh trồng bên rừng trọc thì hai bên sẽ trở lại một bên là rừng xanh, một bên là rừng trọc. Nếu không có vườn ươm thì sẽ không có con giống để cung cấp. Vườn ươm đó có nhiều yếu tố, thứ nhất là khai thác con giống. Hai là người ta có thể dùng nhiều phương pháp để khiến cho san hô stress liên tục để kích thích nó thích nghi với biến đổi khí hậu toàn cầu. Trên lý thuyết là như vậy, nhưng có rất ít nơi làm được việc đó.
Chúng ta có thể dùng công nghệ, kỹ thuật và sức người để đảo ngược xu thế, nhưng đó là một việc rất là khó. Trong đợt tẩy trắng san hô vừa rồi, nước Úc đã gánh chịu một cảnh vô cùng thảm hại, khi hàng trăm ngàn km vuông bị tẩy trắng. Về mặt lý thuyết thì chúng ta có thể thích ứng được, nhưng thực tế rất khó mà triển khai.
Hiện tại chúng tôi cũng đang làm một số mô hình thí điểm cứu hộ san hô bị tẩy trắng, cũng như giúp cho san hô vượt qua được mùa “heat stress”, tức là giai đoạn mà nước biển nóng lên từ 2 tuần đến 1 tháng hoặc 2 tháng. Chúng ta có thể gây dựng những vườn ươm hoặc di dời những vườn ươm. Về mặt kỹ thuật thì có thể, nhưng trên thực tế, trở ngại lớn nhất là kinh phí. Kinh phí cho việc này quá lớn, thậm chí nước Úc còn không làm được, Việt Nam lại càng khó làm.
Trên lý thuyết, chúng ta có thể di dời toàn bộ rạn san hô đến một địa điểm khác để dưỡng chúng, qua thời điểm nước nóng lên thì chúng ta tái cấy vào khu vực đã dời đi. Nhưng để di chuyển 1 km2, 5 km2, 10 km2 hay hàng trăm km2 là rất khó. Trên thế giới hiện giờ người ta đã lập ra các vườn ươm. Nếu đó là vườn ươm với quy mô nhỏ thì có thể di dời được đến khu vực biển mát hơn hoặc di dời vào khu vực bễ nhân tạo và dùng những thiết bị, những công cụ làm mát nước, duy trì nhiệt độ nước ổn định”.
Trước quy mô quá lớn tình trạng san hô bị suy thoái, những tổ chức phi chính phủ như SASA từ nhiều năm qua đã nỗ lực tham gia tái tạo các rạn san hô bị suy thoái, nhưng phạm vi hoạt động của họ rất giới hạn, theo lời anh Lê Chiến:
“Công việc chính của chúng tôi vẫn là tái tạo các rạn san hô. Về kinh phí thì chúng tôi là một tổ chức nghiên cứu và hoạt động thực hành khoa học một cách độc lập, không có tư cách pháp nhân để nhận tài trợ hay hỗ trợ. Toàn bộ kinh phí là do chúng tôi tự chi trả.
Hiện chúng tôi đang làm tại Đà Nẵng và Phú Quốc. Như tôi đã nói ở trên, rất may là miền Trung Trung Bộ, bao gồm cả Đà Nẵng, Quảng Bình…, chưa bị ảnh hưởng bởi hiện tượng tẩy trắng hàng loạt. Chúng tôi đã hoạt động ở Đà Nẵng từ 10 năm rồi, còn ở Phú Quốc thì chúng tôi mới triển khai được khoảng hơn 1 năm. Vấn đề ở đây là không phải nơi nào bị thiệt hại thì chúng tôi mới đến đó, hay là nơi nào cần thì chúng tôi đến, mà chúng tôi đi được ở đâu thì chúng tôi đi. Nơi nào cũng cần cả. Rạn san hô trên thế giới thì đang ở mức độ suy thoái từ 40 đến 60% một năm. Ở đâu chúng ta cũng đều phải làm cả!”
Ngay cả việc phục hồi san hô bị tác động của ô nhiễm biển cũng không phải là đơn giản. Theo báo chí trong nước, 8 năm sau sự cố môi trường ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển miền Trung Việt Nam, dự án phục hồi rạn san hô ở vùng biển này vẫn chưa được triển khai xong.
Sự cố môi trường biển miền Trung xảy ra vào năm 2016 do Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ra đã làm cho hệ động thực vật biển 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các rạn san hô nhiều nơi bị chết, suy thoái mạnh, cần phải được nhanh chóng tái tạo.
Dự án phục hồi, tái tạo hệ sinh thái thủy sinh và nguồn lợi thủy sản, mặc dù theo quy định phải hoàn thành vào tháng 12/2022, nhưng nay vẫn chưa triển khai thi công. Mãi đến tháng 4/2024, tỉnh Thừa Thiên - Huế mới được thủ tướng phê duyệt cấp 170 tỉ đồng để triển khai dự án thả rạn san hô nhân tạo và trồng, phục hồi rạn san hô. Thật ra đây là lần đầu tỉnh này thực hiện dự án như vậy cho nên gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc tìm ra đủ nguồn giống để trồng và phục hồi san hô.
Do phương tiện và khả năng còn hạn chế, Việt Nam phải cần đến sự hỗ trợ của quốc tế, chẳng hạn như của Úc, quốc gia cũng đang hứng chịu thảm nạn san hô bị tẩy trắng hàng loạt. Úc vốn nổi tiếng với rạn san hô Great Barrier, hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, bao gồm khoảng 3.000 rạn san hô riêng rẽ và vịnh san hô. Do đó, các chuyên gia nước này có rất nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bảo vệ rạn san hô trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm nguồn nước, đánh bắt cá quá mức.
Theo báo chí trong nước vào tháng 04/2024, các chuyên gia Úc sẽ đào tạo, hướng dẫn cho 20 nhà khoa học và cán bộ các khu bảo tồn biển Việt Nam nâng cao năng lực, kỹ năng giám sát và quản lý rạn san hô bằng cách ứng dụng công nghệ mới ReefCloud và thiết bị ReefScan. ReefScan là một hệ thống camera dùng để nắm bắt hiện trạng rạn san hô để bảo tồn chúng một cách hiệu quả hơn. Còn ReefCloud là bộ cơ sở dữ liệu lớn dạng mở để quản lý các dữ liệu về rạn san hô.
Không chỉ đối với Việt Nam mà đối với cả thế giới, việc phục hồi, bảo tồn ngày càng cấp thiết, do tình trạng san hô suy thoái, nhất là hiện tượng san hộ bị tẩy trắng hàng loạt, đã trở nên hết sức nghiêm trọng, sẽ ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, theo cảnh báo của những nhà nghiên cứu như anh Lê Chiến:
“Trong vòng 50 năm qua, chúng ta đã đẩy những rạn san hô của chúng ta đến bờ vực suy thoái nghiêm trọng. Nhiều hệ quả có thể xảy ra. Nó chỉ mới là giả thuyết khoa học, chưa xảy ra, nhưng chúng ta có thể dùng các luận cứ khoa học, dẫn chứng khoa học để có thể đưa ra một số dự đoán.
San hô cung cấp sự sống và dung dưỡng sự sống cho từ 25% đến 40% sinh vật từ đáy đại dương. Khi không còn san hô nữa thì 25% cho đến 40% sinh vật này có thể biến mất và điều này sẽ làm sụp đổ toàn bộ mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương. Về sự sụp mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương, lịch sử của hành tinh này đã trải qua 5 lần đại tuyệt chủng. Nó xuất phát từ nhiều lý do, nhưng một trong những hiện tượng đó là sụp đổ chuỗi thức ăn, dẫn đến đại tuyệt chủng dưới đáy đại dương.
Đại dương của chúng ta không còn là một cái máy tạo oxy nữa, không còn là bộ phận quan trọng trong chu trình carbon của hành tinh này nữa, mà có thể nó trở thành một bể chứa tảo độc. Rạn san hô biến mất là một điều vô cùng nghiêm trọng cho cả nhân loại, chứ không chỉ vấn đề kinh tế của người này, người kia hay nước này, nước kia.
Đại dương không chỉ là nguồn cung cấp thức ăn, mà nó còn là một cỗ máy sinh học lớn nhất trên hành tinh này để vận hành khí hậu. Nếu không có chu trình carbon dựa trên mạng lưới thức ăn vô cùng phức tạp của các đại dương, thì các đại dương sẽ trở thành một cỗ máy tạo ra CO2 và từ đấy thì nhiệt độ của bầu khí quyển sẽ tăng lên rất là nhiều, Trái đất sẽ nóng lên rất nhanh. Sau quá trình nóng lên rất nhanh như vậy là quá trình dẫn đến kỷ băng hà. Đấy là quy trình gần như là bất biến trong các kỳ đại tuyệt chủng đã từng xảy ra.”
Mon, 19 Aug 2024 - 185 - Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre”
Chính sách phi liên kết không phải là hoàn toàn mới nhưng được cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong “ngoại giao cây tre”. Một “di sản” được ông cố vun đắp từ Hội nghị Đối ngoại toàn quốc (14/12/2021) và được coi là một “trường phái đối ngoại” của Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Hoàng Thị Hà tại Singapore, trong một bài viết đăng ngày 24/10/2023 trên trang Fulcrum (1), nhận định “mặc dù thiếu nội dung thực chất, nhưng khái niệm “ngoại giao tre Việt Nam” đã phát triển song song với sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông Trọng khi ông củng cố vị trí nổi bật trong hệ thống lãnh đạo tập thể của Việt Nam trong những năm gần đây. Sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông cũng phụ thuộc vào cơ may địa-chính trị của Việt Nam, khi cả Mỹ và Trung Quốc đều cạnh tranh để kéo Việt Nam về phía họ. Người ta có thể lập luận rằng “ngoại giao cây tre” của ông Trọng xuất phát từ sự tình cờ về mặt địa chính trị của Việt Nam hơn là từ sự đổi mới chính sách”.
Còn trong một bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 06/06/2024, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý “khái niệm (“ngoại giao cây tre”) là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước”(2). Tuy nhiên, sau 14 năm, đảng Cộng Sản Việt Nam có tổng bí thư mới. Đại tướng Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi lần lượt giữ chức chủ tịch nước và tổng bí thư, ít nhất cho đến Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV, dự kiến diễn ra vào tháng 01/2026.
Di sản “ngoại giao cây tre” sẽ được tiếp tục như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Vũ Khang, chuyên về an ninh Đông Á, trường Đại học Boston (Boston Collegue), Hoa Kỳ.
RFI : Đảng Cộng Sản Việt Nam bước sang trang mới sau 14 năm lãnh đạo của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ có thay đổi như thế nào với sự kiện này ? Chiến lược “ngoại giao cây tre” sẽ vẫn được tiếp tục ?
Vũ Khang : Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ không có thay đổi gì dưới thời của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm vì có hai lý do chính.
Thứ nhất, ngoại giao Việt Nam từ xưa đến nay vẫn có mục tiêu đầu tiên, đó chính là kiềm chế và trấn an được Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc vẫn đang ổn định nên Việt Nam không có nhu cầu để phải có những thay đổi lớn trong ngoại giao. Nếu Việt Nam có những hành động thay đổi lớn trong chính sách “ngoại giao cây tre”, nhất là Việt Nam muốn mở rộng quan hệ ngoại giao đối với những nước “thù địch” với Trung Quốc thì điều đó có thể khiến Trung Quốc phật lòng. Và trong trường hợp đấy, Việt Nam sẽ phải hứng chịu những đáp trả không cần thiết từ Trung Quốc. Nhưng trong trường hợp hiện nay, Việt Nam với Trung Quốc hoàn toàn không có những lý do gì để hạ quan hệ ngoại giao song phương. Cho nên Hà Nội không có lý do gì để mà thay đổi đường lối “ngoại giao cây tre” hiện giờ.
Đọc thêm :2023: Năm thành công của "ngoại giao cây tre" Việt NamLý do thứ hai, chính sách đối ngoại của Việt Nam từ xưa đến nay vẫn do Bộ Chính Trị quyết định chứ không phải là do một cá nhân, bất kể cá nhân đấy có là tổng bí thư hay là chủ tịch nước đi chăng nữa. Cần phải hiểu rõ là chính mô hình của Bộ Chính Trị này tạo điều kiện cho một tập thể lãnh đạo, ra quyết sách, quyết định của đất nước, chứ không phải là một cá nhân. Cho nên, chừng nào các thành viên còn lại trong Bộ Chính Trị không muốn thay đổi đường lối chính sách “ngoại giao cây tre” hiện giờ thì việc thay đổi nhà lãnh đạo cấp cao nhất là tổng bí thư cũng sẽ không có tác động lớn đối với đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam.
RFI : Như anh vừa nêu phần nào, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm hiện giờ là nhà lãnh đạo quyền lực nhất Việt Nam nhưng dường như lại không có nhiều kinh nghiệm đối ngoại, điều này có thác động như thế nào đến ngoại giao của Việt Nam, đặc biệt là với Trung Quốc và Hoa Kỳ ?
Vũ Khang : Thực ra kinh nghiệm đối ngoại không quá quan trọng trong hoàn cảnh hiện nay. Nhất là khi các quyết sách ngoại giao của Việt Nam được thông qua bởi Bộ Chính Trị chứ không phải một cá nhân. Tóm lại, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm có thể không có kinh nghiệm ngoại giao nhiều như những người tiền nhiệm nhưng không có nghĩa là những người đồng chí ở trong Bộ Chính Trị hoặc những nhà hoạch định chính sách dưới quyền của ông Tô Lâm trong nước cũng không có kinh nghiệm ngoại giao nào cả.
Có thể hình dung ra rằng ông Tô Lâm như là một người đại diện lớn nhất cho chính sách đối ngoại của Việt Nam chứ ông cũng chỉ là một nhân tố quyết định chính sách đối ngoại. Cho nên kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm, mặc dù về tương lai sẽ quan trọng, nhưng hiện giờ trong bối cảnh Việt Nam đang có sự thay đổi lớn về thượng tầng lãnh đạo, thì kinh nghiệm ngoại giao không phải là ưu tiên quan trọng nhất lúc này. Và cần phải nhấn rõ rằng kinh nghiệm ngoại giao cần phải được đúc kết về lâu về dài. Nhiều nhà lãnh đạo, kể cả những tổng thống của Mỹ hay những nước phương Tây khác, khi họ lên chưa chắc họ cũng đã có kinh nghiệm ngoại giao. Nhưng trải qua những lần công tác hay là những cuộc gặp quốc tế, họ dần trở nên bạo dạn hơn và có những tiếp xúc giúp cho họ có thêm kinh nghiệm để đối đáp với những đối tác nước ngoài.
Điểm tiếp theo, đó là về mặt quan điểm chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam không thay đổi, cho nên đấy mới là điều mà Mỹ với Trung Quốc muốn nghe nhất thời điểm này, hơn là kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm. Bởi vì thực ra Mỹ với Trung Quốc đều hiểu rằng là chừng nào Việt Nam còn duy trì một vị trí trung lập, kinh nghiệm ngoại giao của người đứng đầu hệ thống đảng và nhà nước không quá là quan trọng.
Đọc thêm :Việt Nam : Ngoại giao cây tre với Trung Quốc mang đặc tính « tân triều cống »RFI : Với nhiều nước Liên Hiệp Châu Âu, đặc biệt là Đức và Slovakia, khủng hoảng ngoại giao liên quan vụ bắt giữ ông Trịnh Xuân Thanh tại Berlin cũng như là những vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, có còn là rào cản trong mối liên hệ với nhà lãnh đạo quyền lực nhất hiện nay không ?
Vũ Khang : Các nước phương Tây vẫn giương cao ngọn cờ dân chủ, nhân quyền khi có những trao đổi qua lại với chính quyền Việt Nam. Đây cũng là một cách để họ có thể ép Việt Nam phải có những nhượng bộ về ngoại giao. Họ có thể sử dụng những lá bài này để lên án Việt Nam trên trường quốc tế nhằm làm tổn hại uy tín của Việt Nam. Tuy vậy, việc sử dụng ngọn cờ dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong rất nhiều phương thức để phương Tây bảo vệ quyền lợi của họ trong quan hệ với Việt Nam.
Chính việc dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong nhiều phương thức tạo điều kiện cho phương Tây. Đôi khi họ đặt những quyền lợi cốt lõi của họ, quyền lợi về kinh tế hoặc là quyền lợi về chính trị, lên trên cả những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền. Đơn cử Mỹ chẳng hạn, trong quá khứ, Mỹ cũng đã rất nhiều lần cho thấy là họ cũng không ngần ngại hợp tác, tăng cường quan hệ với nhà nước độc đảng nếu các nhà nước độc đảng đó có chung lợi ích với Mỹ.
Và chính Liên Hiệp Châu Âu cũng đã đánh tín hiệu với chính quyền của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm là họ coi trọng, muốn hợp tác với chính quyền mới của ông khi phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh, ông Josep Borrell đã đến Việt Nam và dự lễ tang của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sau khi dự lễ tang, ông đã có cuộc gặp với ông Tô Lâm. Chính cuộc gặp với một nhà lãnh đạo mới của Việt Nam cũng khẳng định rằng Liên Hiệp Châu Âu cũng không muốn những hiểu lầm, những sự kiện trong quá khứ làm tổn hại mối quan hệ giữa EU và nhà lãnh đạo mới của Việt Nam.
Đọc thêm : Liên Hiệp Châu Âu muốn nâng cấp quan hệ với Việt NamCần phải nói rõ vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu đang ngày càng đi lên, nhất là khi Mỹ và các đồng minh đang nỗ lực chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc đến những nước “bớt thù nghịch hơn” như Việt Nam. Trong hoàn cảnh này, chính Liên Hiệp Châu Âu cũng không có lý do gì để một chuyện trong quá khứ hoặc những vấn đề dân chủ, nhân quyền làm tổn hại tương lai, lợi ích của họ khi chính họ cũng nhìn ra được rằng mở rộng hợp tác kinh tế với Việt Nam đang là xu thế toàn cầu và đang là một xu thế có lợi cho kinh tế của phương Tây.
RFI : Mới đây, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm đã điện đàm với tổng thống Nga và hai bên khẳng định về mối quan hệ song phương. Trong thời gian tới, mối quan hệ giữa Việt Nam và Nga sẽ đi theo hướng như nào ?
Vũ Khang : Trước khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, vào tháng 07/2024, ông Tô Lâm đã là người đại diện cho chính quyền Việt Nam đón tổng thống Nga Vladimir Putin. Việc Nga gửi lời trao đổi với ông Tô Lâm trong tuần vừa rồi (ngày 08/08/2024) về việc Việt Nam và Nga muốn tăng cường quan hệ ngoại giao, thực ra không có gì là mới hay bất ngờ bởi vì từ xưa đến nay, chính sách đối ngoại của Nga luôn luôn coi Việt Nam là một trong những đối tác châu Á quan trọng song song với Ấn Độ khi mà Nga và Việt Nam có mối quan hệ quân sự từ rất lâu và quan hệ giữa hai nước chưa bao giờ gặp phải khủng hoảng đến mức trầm trọng như quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ hoặc với Trung Quốc.
Đọc thêm : Việt Nam không ngại bị chỉ trích khi đón tổng thống Putin bị CPI truy nã vì "tội ác chiến tranh"Trong hoàn cảnh Việt Nam cũng nhận thấy rằng “ngoại giao cây tre” cần phải được liên tục phát triển và nhấn mạnh, thông qua việc Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác lớn như Mỹ, Trung Quốc và Nga, việc Việt Nam và Nga có cuộc điện đàm để tái khẳng định chuyến thăm của ông Putin đến Hà Nội là một điều rất bình thường và cũng là một điều nằm trong chính sách đối ngoại “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Sự kiện đó cũng muốn tái khẳng định rằng chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam dưới thời tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sẽ không có gì thay đổi so với thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Vũ Khang, trường Đại học Boston, Hoa Kỳ.
*******
(1) Nguyen Phu Trong’s ‘Bamboo Diplomacy’: Legacy in the Making?
(2) Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước
Mon, 12 Aug 2024 - 184 - Ranh giới ngoài thềm lục địa: Vấn đề cần giải quyết giữa Việt Nam và Philippines
Trong bối cảnh Việt Nam và Philippines phải tăng cường hợp tác để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, giữa hai nước lại nảy sinh một vấn đề cần giải quyết, đó là vấn đề ranh giới ngoài thềm lục địa.
Ngày 15/06/2024, bộ Ngoại Giao Philippines thông báo phái đoàn nước này tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình Báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông ( mà họ gọi là Biển Tây Philippines ) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) "để đăng ký quyền với vùng thềm lục địa mở rộng ở tây Palawan".
Philippines cho biết họ đã mất 15 năm để chuẩn bị cho việc này, theo đúng Điều 76 trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Theo Công ước này, một quốc gia ven biển như Philippines có thể “thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa, bao gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, vượt 200 hải lý, nhưng không quá 350 hải lý từ đường cơ sở được dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.
Vấn đề là vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines muốn được công nhận có thể chồng lấn với những nước ven Biển Đông khác, đặc biệt là Việt Nam.
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/07, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại:
"Theo điều 76 của UNCLOS 1982, mỗi quốc gia sẽ có vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở hướng ra ngoài. Ngoài ra, các quốc gia có thể có vùng thềm lục địa mở rộng có thể tối đa là 350 hải lý. Từ năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa một báo cáo riêng của Việt Nam và một báo cáo chung với Malaysia ngày 06/05 và 07/05. Một ngày sau đó, 08/05, Trung Quốc đã gởi hai công hàm phản đối hai đệ trình đó. Trong hai công hàm đó có kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò".
Sau đó, đến tháng 12/2019, phía Malaysia lại đệ trình một báo cáo mới về thềm lục địa mở rộng, trong bối cảnh sau phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mới đây nhất phía Philippines cũng tiếp tục đệ trình, theo đúng quy định của điều 76 trong UNCLOS 1982. Nhưng yêu cầu có được chấp thuận hay không thì đó lại là câu chuyện dài hơn rất nhiều.
Ngay trong đệ trình của Philippines lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, họ cũng đã nói rõ là vùng thềm lục địa mở rộng này của họ có khả năng sẽ chồng lấn với vùng thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và của Malaysia. Mới đây nhất, Malaysia đã gởi công hàm phản đối, bởi vì giữa Malaysia và Philippines vẫn có tranh chấp về vùng Sabah, mà Manila cho là của Philippines, nhưng nay đang thuộc về Malaysia. Vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines yêu sách cũng nằm trong vùng thềm lục địa của Sabah.
Đối với Việt Nam, một số nhà nghiên cứu khi đo bản đồ cũng đã thấy là một sự chồng lấn. Khả năng chồng lấn với Việt Nam là chắc chắn."
Phản ứng về quyết định nói trên của Manila, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng ngày 20/06, nhìn nhận quyền của Philippines:
"Các quốc gia ven biển thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) có quyền xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của UNCLOS 1982.”
Nhưng phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nhấn mạnh Việt Nam“bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.”
Đáp lại tuyên bố nói trên của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngày 01/07, bộ Ngoại Giao Philippines cho biết Manila "hoan nghênh" việc Hà Nội công nhận báo cáo của Manila đệ trình lên Liên Hiệp Quốc nhằm bảo đảm quyền của nước này đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông, đồng thời cho biết “sẵn sàng đàm phán với Hà Nội để giải quyết mọi vấn đề”, cũng như sẵn sàng hợp tác với Việt Nam “theo những cách khả thi để giúp đạt được giải pháp cùng có lợi cho các vấn đề ở Biển Đông”.
Sau đó, ngày 17/07, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam đã chính thức nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc.Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này "sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS".
Nhưng liệu Việt Nam và Philippines có thể dễ dàng đạt được thỏa thuận để giải quyết sự chồng lấn về thềm lục địa mở rộng giữa hai nước hay không? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định:
"Chắc chắn là được thôi, khi mà cả hai quốc gia đều có thiện chí thì cũng dễ giải quyết. Việc chồng lấn là bình thường. Trên khu vực Biển Đông có rất nhiều sự chồng lấn. Việt Nam và Indonesia đã mất cả 12 năm để phân định vùng đặc quyền kinh tế. Hai nước đã công bố thỏa thuận qua tuyên bố năm 2022, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy văn bản chính thức Việt Nam và Indonesia phân định như thế nào.
Giữa Việt Nam với Philippines thì cũng đơn giản, vì thứ nhất là khi hai bên đều đòi hỏi vùng thềm lục địa mở rộng, thì chắc chắn là sẽ có sự chồng lấn và hai bên phải đàm phán. Nếu hai bên đều có thiện chí thì không khó, khó nhất là một bên, hoặc cả hai bên không có thiện chí. Trong đàm phán, hai bên đều phải nhân nhượng với nhau, để cùng chấp nhận một giải pháp hai bên cùng có lợi.
Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines về hợp tác trên biển cũng đã có từ lâu. Vài năm trước, hai nước đã ký một số thỏa thuận về thăm dò địa chấn, hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Như vậy chủ trương hai bên đều có rồi, vấn đề còn lại là hai bên sẽ phải đàm phán trực tiếp, sẽ phân định như thế nào. Có lẽ đây sẽ là một quá trình khá dài, vì cả hai bên đều phải dựa trên những điều kiện địa lý tự nhiên của mình, đồng thời căn cứ trên luật pháp, cũng như những án lệ trước đây, để tìm ra một giải pháp công bằng nhất".
UNCLOS quy định thời hạn cuối cùng để đệ trình thông tin về ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) là ngày 13/5/2009. Như vậy tại sao Philippines trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng tại Biển Đông 15 năm sau thời hạn cuối cùng?
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đệ trình của Philippines vào thời điểm này có thể có một số tính toán:
"Cái đầu tiên là liên quan đến Trung Quốc. Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc và Philippines luôn luôn đối đầu ở khu vực biển của mấy thực thể, thứ nhất là Bãi Cỏ Mây, thứ hai là bãi cạn Scarborough và thứ ba là bãi cạn Sa Bin. Đặc biệt ở Bãi Cỏ Mây chúng ta đã thấy tình hình căng thẳng như thế nào. Gần đây nhất là sự kiện 17/06, nhiều tàu của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu của Philippines, các thủy thủ Trung Quốc đã cầm rìu, dao găm và gậy tấn công các thủy thủ Philippines trên tàu của họ, cướp một số vũ khí, cũng như đồ đạc. Xung đột đã khiến một binh sĩ của Philippines bị mất một ngón tay cái.
Đây không phải là sự kiện đầu tiên cũng như cuối cùng. Từ 2013 tới nay, những vụ va đâm tàu, phun vòi rồng và chiếu tia laser vào các thủy thủ Philippines đã xảy ra rất nhiều. Vào tháng 05/2009, việc Việt Nam và Malaysia đệ trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng đã gây một làn sóng phản đối từ Trung Quốc. Lần thứ hai đó là vào tháng 12/2019, Philippines làm mới lại đệ trình của mình thì cũng đã gây ra cuộc chiến công hàm kéo dài đến 2021 mới chấm dứt. Các quốc gia đã liên tục gởi các công hàm lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để thể hiện quan điểm của mình.
Có lẽ đó là cái quan trọng mà Philippines tính tới: trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và chính sách của Philippines đang sử dụng là "name and shame", vạch trần những hành động côn đồ và phi pháp của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông tranh chấp, thì Philippines hy vọng là sẽ có một làn sóng của công luận trên thế giới lên án Trung Quốc và điều này sẽ tác động phần nào đến cuộc đối đầu giữa hai nước.
Ngoài ra, Philippines đương nhiên có những tính toán khác, trong đó có việc nhắc lại tác dụng của phán quyết 2016 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Philippines cũng muốn tranh thủ lúc này Philippines đang có một đại diện trong Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc."
Trong một bài viết đăng trên trang Vietnamnet ngày 29/06, đại sứ Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, một chuyên gia pháp lý, cũng nhận định:
"Trước hết, chính quyền tổng thống Marcos Jr. muốn khẳng định giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/6/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết này tạo khả năng cho phép mở rộng thềm lục địa từ các đảo chính của Philippines trong khi làm rõ mỗi thực thể biển ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý.
Thứ hai, đệ trình có thể nhằm bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc.
Thứ ba, Manila có thể muốn khẳng định tính pháp lý của đường cơ sở quần đảo Philippines năm 2012, đường này đã được sửa đổi cho phù hợp hơn với UNCLOS.
Thứ tư, việc đệ trình tạo điều kiện kích hoạt điều 5 của Hiệp ước phòng thủ chung Philippines - Hoa Kỳ 1951, theo đó Mỹ có trách nhiệm bảo vệ các lực lượng vũ trang Philippines, các tàu và máy bay công vụ (bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển) khỏi các cuộc tấn công vũ trang trong Biển Đông.
Thứ năm, đệ trình có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) đang gặp bế tắc."
Nhưng theo ông Nguyễn Hồng Thao, tranh chấp chủ quyền các thực thể trong quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại sẽ làm nảy sinh tiếp vấn đề phân định biển của các vùng đáy biển thuộc lãnh hải của các thực thể này với yêu sách thềm lục địa mở rộng của Philippines.
Ấy là chưa kể đến phản ứng của Trung Quốc. Ngày 18/07/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa mở rộng "bao gồm một phần quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) của Trung Quốc và xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, trái với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển".
Trước đó, ngày 17/6/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã khẳng định “đệ trình đơn phương của Philippines về mở rộng thềm lục địa của họ tại Biển Đông xâm phạm tới các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, vi phạm luật quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”.
Mon, 05 Aug 2024 - 183 - Chống tham nhũng thời hậu Nguyễn Phú Trọng: Sẽ vẫn "diệt chuột không để vỡ bình"
Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời ngày 19/07/2024, chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, tạm giữ chức tổng bí thư, câu hỏi đang được đặt ra là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “chiến dịch đốt lò”, do ông Trọng phát động rồi sẽ đi đến đâu? Cùng với cuộc chiến chống tham nhũng, đấu đá trong nội bộ Đảng để giành chiếc ghế lãnh đạo tối cao sẽ diễn ra như thế nào từ đây đến Đại Hội Đảng năm 2026?
RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, về chủ đề này.
RFI:Thưa anh Lê Hồng Hiệp, trước hết điểm lại những gì mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong cuộc chiến chống tham nhũng do chính ông phát động kể từ khi lên lãnh đạo Đảng cách đây hơn 1 thập niên, anh nhận thấy có những điểm gì đáng ghi nhận?
Lê Hồng Hiệp:“Có thể nói thành tựu quan trọng nhất của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại chính là đã phát động và dẫn dắt thành công một chiến dịch chống tham nhũng có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” nhắm vào các quan chức thuộc mọi cấp bậc.
Từ năm 2011, khi bắt đầu nắm chức tổng bí thư, ông đã bắt đầu phát động chiến dịch này, nhưng do một số trở ngại, đặc biệt là có sự lãnh đạo chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng thời bấy giờ, vai trò của Đảng và của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc chống tham nhũng còn hạn chế. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, khi ông Trọng đã củng cố được quyền lực, chiến dịch này đã tăng tốc rất mạnh, tạo ra một làn sóng thanh lọc trong nội bộ Đảng.
Từ 2016 đến nay, có khoảng 139 ngàn đảng viên đã bị kỷ luật, trong đó có hơn 40 ủy viên Trung ương Đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 2021 đến nay, có 7 ủy viên Bộ Chính Trị, trong đó có những vị trong “tứ trụ”, như chủ tịch nước Võ Xuân Phúc, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và nguyên Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai đã bị buộc phải thôi nhiệm vụ vì các lý do khác nhau liên quan đến các vụ tham nhũng. Để so sánh thì chúng ta thấy là từ 1986 đến 2016, không có một ủy viên Bộ Chính Trị nào bị cách chức vì tham nhũng, chỉ có 9 ủy viên Trung ương Đảng bị kỷ luật vì các vi phạm liên quan đến tham nhũng.
Trong cương vị tổng bí thư, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông Trọng là bảo vệ sự sinh tồn của Đảng, cũng như duy trì vai trò cầm quyền của Đảng. Ông luôn tâm niệm tham nhũng là mối đe dọa đối với sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của Đảng, chính vì vậy ông luôn nhấn mạnh chống tham nhũng là biện pháp để duy trì vai trò của Đảng. Tham nhũng đã ăn rất sâu ở Việt Nam và đã gây tác hại rất lớn, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xảy ra nhiều vụ tham nhũng mà cho tới nay người ta vẫn phải mất rất nhiều công sức để giải quyết hậu quả.
Bản thân ông Trọng cũng có nhu cầu dùng chiến dịch chống tham nhũng này để nâng cao vai trò kiểm soát của Đảng, đặc biệt là sau thời kỳ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn mà vai trò của bên chính phủ đã lấn át vai trò của lãnh đạo Đảng. Cuộc chiến chống tham nhũng này cũng là một cách để giúp khôi phục vai trò kiểm soát của Đảng trong hệ thống chính trị. Qua đó gián tiếp củng cố vai trò, quyền lực cá nhân của ban lãnh đạo Đảng, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng."
RFI: Như vậy những yếu tố nào đã giúp ông Nguyễn Phú Trọng có thể mạnh tay như thế trong chiến dịch chống tham nhũng?
Lê Hồng Hiệp:"Ông Trọng hơi khác chút so với các lãnh đạo khác đó là ông được tiếng trong sạch thanh liêm, trong quá trình vươn lên nắm quyền, ông không dính vào các bê bối tham nhũng, ít nhất là cho đến lúc này. Chính vì vậy là ông có thẩm quyền đạo đức, có tiếng nói đủ lớn để có thể dẫn dắt cuộc chiến chống tham nhũng này mà không gặp sự kháng cự, không có các điểm yếu mà các đối thủ của ông có thể khai thác.
Mặt khác, ông cũng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ, hợp tác của một bộ phận lãnh đạo, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới bộ Công An và những cơ quan giúp thực thi chiến dịch này. Đặc biệt là ông Trọng đã đóng vai trò trong Đảng ủy Công an Trung ương, một vai trò mà các tổng bí thư trước ông Trọng chưa từng có, kiểm soát bộ Công An thành một công cụ hiệu quả trong việc chống tham nhũng. Nhờ vậy mà ông Trọng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến dịch chống tham nhũng cho đến nay. Di sản đó được duy trì đến đâu trong thời gian tới? Đó vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.”
RFI: Tuy chủ trương “Diệt chuột không để vỡ bình”, nhưng ta đã thấy là trong thời gian qua, kể cả các ủy viên Bộ Chính Trị cũng bị kỷ luật, bị cách chức. Vậy thì chiến dịch chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng phát động đã có tác động như thế nào đến thượng tầng lãnh đạo của Đảng?
Lê Hồng Hiệp:“Diệt chuột không để vỡ bình tức là không để ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chế độ, không để những người mà Đảng xem là “các thế lực thù địch”, hoặc những người chống đối vai trò lãnh đạo của Đảng “lợi dụng” để làm suy yếu Đảng. Chính vì vậy mà trong quá trình chống tham nhũng, thay vì nâng cao vai trò của báo chí, xã hội dân sự, những thành phần có thể đóng góp vào cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách phơi bày các quan chức tham nhũng, thì trong thời kỳ vừa qua, Đảng đã thắt chặt kiểm soát đối với báo chí và xã hội dân sự. Đảng muốn chống tham nhũng theo cách của Đảng và các biện pháp được thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát của Đảng, không thể ảnh hưởng đến an ninh chế độ.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng những tác dụng phụ nhất định: Ngoài việc thắt chặt đối với không gian công cộng, không gian xã hội dân sự, không gian tự do báo chí ở Việt Nam, khi người ta nhấn mạnh đến chống tham nhũng, trong một số trường hợp, cuộc chiến chống tham nhũng biến thành công cụ tranh giành quyền lực hoặc thanh lọc các đối thủ chính trị. Rất nhiều lãnh đạo, kể cả trong “tứ trụ”, đã bị loại bỏ, bị thay thế, dẫn đến biến động trong cấu trúc thượng tầng lãnh đạo của đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, họ sẽ không cho phép những biến động này ảnh hưởng tới an ninh của chế độ.
Một tác dụng phụ khác, đó là cuộc chiến chống tham nhũng này cũng tạo ra cảm giác bất an, xuống tinh thần, trong một bộ phận cán bộ, công chức, thể hiện qua việc họ thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, hay tránh đưa ra các quyết định về các dự án hay các quyết định đầu tư, do lo sợ trách nhiệm về mặt pháp lý khi đưa ra các quyết định mà sau này có thể bị coi là có vi phạm, ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị của họ. Việc đùn đẩy trách nhiệm, né tránh ra quyết định cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
Về lâu dài, những biến động về chính trị và trì trệ về kinh tế cũng là những thách thức mà Đảng không thể bỏ qua, trong ngắn hạn không phải là vấn đề, nhưng nếu nó kéo dài quá lâu thì sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, ổn định chính trị của đất nước và làm giảm uy tín của Đảng. Chính vì vậy, tôi nghĩ trong tương lai có thể họ sẽ phải có một số điều chỉnh, không để các tác dụng phụ này kéo dài, ảnh hưởng quá lớn đến vai trò, uy tín của Đảng, cũng như sự phát triển của đất nước.”
RFI: Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, Bộ Chính Trị đã giao cho ông Tô Lâm tạm nắm quyền tổng bí thư, không biết ông sẽ nắm chức vụ này đến lúc nào, nhưng có vẻ như ông Tô Lâm đang có lợi thế rất lớn để tranh chức tổng bí thư sau này. Liệu có nguy cơ là kể từ nay ông có toàn quyền để tiếp tục chống tham nhũng nhưng là để củng cố thế lực cá nhân của ông?
Lê Hồng Hiệp: “Hiện tại ông Tô Lâm có một số lợi thế trong việc kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên việc bầu ông Tô Lâm hay ai đó thì vẫn còn phải chờ quyết định của Bộ Chính Trị và Trung ương Đảng. Tuy nhiên, bất kể ai được bầu chọn thì cũng sẽ tiếp tục cuộc chiến chống tham nhũng này. Lý do thứ nhất đó là di sản ông Nguyễn Phú Trọng để lại quá lớn. Người kế nhiệm ông Trọng không thể làm ngơ trước di sản đó, không thể một sớm một chiều lật ngược di sản đó. Di sản quan trọng nhất của ông là chống tham nhũng, vì vậy người kế nhiệm sẽ gặp áp lực rất lớn, không thể không tiếp tục cuộc chiến này, để thể hiện tính chính danh của Đảng, cũng như của bản thân người đó.
Thứ hai, bản thân người kế nhiệm cũng thấy có lợi ích trong việc duy trì cuộc chiến chống tham nhũng này, cụ thể là sẽ tiếp tục sử dụng nó như một công cụ hiệu quả để kiểm soát nội bộ và có thể hướng tới kiểm soát các đối thủ chính trị, thông qua việc thanh trừng những người có thể là nguy cơ đối với quyền lực của họ. Cuộc chiến chống tham nhũng này vẫn sẽ tiếp tục dưới thời lãnh đạo mới. Vấn đề đặt ra là cách thức tiến hành của họ sẽ như thế nào, quy mô, cũng như cường độ của cuộc chiến sẽ ra sao.
Có thể sẽ có một số điều chỉnh, ví dụ như họ có thể có những sáng kiến mới để vừa duy trì được nhiệm vụ chống tham nhũng, vừa hóa giải được một số thách thức về phát triển kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu của nhà lãnh đạo mới, tức là vừa duy trì được quyền lực, vừa có thể chống tham nhũng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như duy trì được sự ổn định trong thượng tầng kiến trúc của hệ thống chính trị. Liệu ông Tô Lâm, hay một ai đó, có sẽ thay đổi cách tiếp cận hay không? Chúng ta hãy chờ xem.”
Mon, 29 Jul 2024 - 182 - Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam
Chủ tịch nước Tô Lâm trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi kiêm nhiệm chức tổng bí thư đảng Cộng Sản từ ngày 18/07/2024. Giới quan sát và truyền thông phương Tây đều cho rằng ông Tô Lâm « có khả năng củng cố quyền lực hơn nữa ».
Là người trực tiếp chống tham nhũng và cũng là « người cuối cùng trụ lại », ông Tô Lâm sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông Nguyễn Phú Trọng nhưng « phục vụ cả lợi ích riêng », theo nhận định của giáo sư Zachary Abuza, Trường Chiến tranh Quốc gia Washington.
Việc được bầu làm chủ tịch nước được coi là « bước đệm » cho chức vụ lãnh đạo đảng. Và ông không ngồi vào ghế chủ tịch nước nếu thực sự chưa bố trí được người thân cận thay ông làm bộ trưởng Công An. Loại hết mọi đối thủ, trong đó có hai chủ tịch nước, một chủ tịch Quốc Hội, để nắm giữ, dù tạm quyền, cả hai chức vụ cao nhất của Việt Nam - tổng bí thư và chủ tịch nước - là « một thắng lợi hoàn toàn » của ông Tô Lâm, theo giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
Ông đánh giá : « Đây là một chính trị gia vô cùngquyền lực, nhận được sự ủng hộ của một bộ(Công An)nằm trọng tâm của dự án chính trị. Chúng ta sẽthấymột sự cá nhân hóa quyền lực xung quanh ông ». Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 19/07, chuyên gia về Việt Nam Benoît de Tréglodé, nhấn mạnh sẽ « không có đoạn tuyệt », mà là « tiếp nối » chính sách của người tiền nhiệm. Có nghĩa là chiến dịch « đốt lò » sẽ tiếp diễn, nhưng được điều phối để tránh ảnh hưởng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
RFI : Ông Tô Lâm dường như từng không muốn trở thành chủ tịch nước Việt Namnếu như chỉ giữ một mình chức vụ nàynhưng hiện giờ ông đang giữ vị trí mà ông Võ Văn Thưởng phải từ bỏ. Chức vụ mà ông Tô Lâm thực sự nhắm tới là tổng bí thư đảng Cộng Sản, hiện giờ ông được bộ Chính Trị chỉ định thay thế cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Như vậy ông kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất. Liệu cuối cùng thời điểm có đến sớm hơn so với dự kiến không ?
Benoît de Tréglodé : Trước tiên phải nhớ rằng ông Tô Lâm suy ngẫm đến việc này từ nhiều năm nay. Ý thức rõ về vị trí bộ trưởng Công An của mình, ông đã chiếm được vị trí trung tâm chiến lược trong bộ máy Nhà nước. Cũng đừng quên rằng công an luôn là một yếu tố an ninh vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ chế độ từ bên trong trước những chuyển biến chung của thời đại và xã hội. Nhờ vị trí chiến lược đó mà ngay từ đầu, ông Tô Lâm đã là một ứng cử viên có tiềm năng lớn để thay thế ông Nguyễn Phú Trọng.
Vị trí chủ tịch nước có tầm quan trọng tương đối hình thức trong hệ thống chính trị Việt Nam, ông Tô Lâm không quan tâm trực tiếp đến chức vụ này. Nếu ông chấp nhận đảm nhiệm vai trò chủ tịch nước, đó là vì ông biết dù sao đi nữa thì ông Nguyễn Phú Trọng cũng không còn nhiều thời gian và chức chủ tịch nước thực sự chỉ là hình thức chuyển tiếp đối với ông. Xin nhắc lại là trong lịch sử chính trị Việt Nam đã có một số lần vị trí chủ tịch nước và tổng bí thư do cùng một người đảm nhiệm, ví dụ sau khi chủ tịch nước Trần Đại Quang mất, ông Nguyễn Phú Trọng kiêm nhiệm từ năm 2019 đến 2021.
Hiện giờ, có lẽ chính việc tạm quyền, điều mà ông từng ngóng đợi và hy vọng đó, sẽ đưa ông giữ chức vụ này ít nhất cho đến đại hội sắp tới của đảng Cộng Sản Việt Nam, vào đầu năm 2026. Cho nên, xin nhắc lại, đó là điều mà ông Tô Lâm đã tính toán.
RFI : Tại sao « đây là một thắng lợi hoàn toàn đối với ông » Tô Lâm, theo đánh giá của ông với một số cơ quan truyền thông Pháp ?
Benoît de Tréglodé :Điều đầu tiên cần ghi nhận là trong những năm qua, với sự thay đổi của bối cảnh quốc tế, các cuộc khủng hoảng kinh tế thường xuyên, khủng hoảng Covid-19, tất cả các xã hội đều suy yếu. Vì vậy mục tiêu của các nhà lãnh đạo đất nước - vốn khá độc đoán - là làm mọi cách để bảo vệ sự phát triển yên bình của đất nước.Và nhìn từ góc độ này, trật tự là một khái niệm cực kỳ quan trọng. Đó cũng là điểm chung đã đưa ông Nguyễn Phú Trọng đến gần ông Tô Lâm hơn, lúc đó mới chỉ là bộ trưởng Công An chứ không phải là người kế thừa.
Mối quan hệ giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tô Lâm đôi lúc vô cùng sóng gió. Nhưng rõ ràng họ có chung quan niệm là xã hội Việt Nam phải có kỷ cương, không thể để đất nước được quản lý theo cách « hỗn loạn, bất ổn » và cần phải cân bằng giữa chủ trương « cởi mở về chính trị » và quan niệm « chặt chẽ về trật tự ». Do đó, trật tự và việc duy trì trật tự là trọng tâm trong dự án chính trị của hai nhà tư tưởng cực kỳ thực dụng này. Cả hai đều chưa bao giờ thực sự muốn xem xét lại sự cân bằng quyền lực truyền thống với Bắc Kinh, cũng như các nước lớn khác trên trường quốc tế. Mục tiêu là tránh bất ổn trong nước và cho phép kinh tế xoa dịu bớt những khát vọng tiềm tàng của người dân trong việc đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn.
RFI : Liệu « chiến thắng » này có khả năng kéo dài đến sau cả Đại hội đảng ?
Benoît de Tréglodé :Có. Phải nói là lịch sử thường không phải là nhà cố vấn hay lắm nhưng đôi khi thì ngược lại. Người ta vẫn nhớ đến một nhân vật ít nổi tiếng nhưng cuối cùng lại để lại một chút dấu ấn trong ký ức, đặc biệt là ở nước ngoài, trong đó có Pháp. Đó là bộ trưởng bộ Công An đầu tiên của Việt Nam, ông Trần Quốc Hoàn. Trong thời gian rất dài, gần 28 năm, từ năm 1953 đến 1981, ông Trần Quốc Hoàn đứng đầu một bộ nòng cốt, mà hiểu được cách vận hành của bộ này giúp nắm được sự hình thành chế độ chính trị Việt Nam.
Có thể hình dung là ông Tô Lâm lấy tấm gương lịch sử này để làm hình mẫu. Ông Trần Quốc Hoàn trở thành bộ trưởng bộ Công An năm 36 tuổi. Đây không phải là trường hợp của ông Tô Lâm khi ông giữ vị trí được đánh giá là quan trọng trong bộ máy Việt Nam. Nhưng dù sao gương mặt lịch sử này có ý nghĩa quan trọng để hiểu điều mà ông Tô Lâm muốn làm với chế độ chính trị Việt Nam và cách ông đã thành công trong vòng 3-4 năm vừa qua, đưa bộ Công An và người của ông vào vị trí không ai cạnh tranh được. Trong bộ máy Nhà nước, cũng như trong bộ Chính Trị và trong chính phủ, người xuất thân từ bộ Công An hiện giờ không có đối thủ cạnh tranh.
RFI : Việc ôngTô Lâm kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất, ít nhất cho đến kỳ Đại hội đảng, có thể dẫn đến những thay đổi nào trong nội bộ ?
Benoît de Tréglodé : Sẽ không có thay đổi lớn nào. Trước tiên, đó là một kế hoạch chính trị đã được suy tính. Chúng ta nhớ là vào kỳ họp toàn thể của đảng Cộng Sản vào mùa thu 2023, vấn đề kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng còn chưa ngã ngũ. Ông Tô Lâm thực sự không muốn có một cái tên nào khác nổi lên. Bị rơi vào tình thế khá tế nhị đó, ông Nguyễn Phú Trọng buộc phải quyết định là đích thân ông chỉ đạo tiểu ban nhân sự đảng. Đây là điểm quan trọng để hiểu được thời điểm căng thẳng lúc đó. Ông Tô Lâm, nhân vật quyền lực số hai của chính quyền lúc đó, đã tính toán và chuẩn bị cho mục tiêu của mình.
Một điểm quan trọng khác vào thời điểm đó, đó là ông Tô Lâm đã lãnh trách nhiệm về các chiến dịch chống tham nhũng, lĩnh vực trước đây nằm trong tay ông Nguyễn Phú Trọng. Vì vậy, sự chuyển tiếp đã được được bắt đầu từ nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm qua, cho nên đừng mong là sẽ có những thay đổi lớn nào đó xảy ra từ giờ cho đến Đại hội đảng Cộng Sản sắp tới. Ông Tô Lâm hoàn toàn ý thức được rằng từ giờ ông kiểm soát bộ máy nhà nước Việt Nam. Và ông cũng ý thức được hình ảnh của ông, cũng như trách nhiệm về hình ảnh của ông ở nước ngoài. Không có chuyện khiến các đối tác thương mại lớn nước ngoài sợ hãi. Đảng không có phương tiện, chính phủ cũng vậy. Tôi nghĩ rằng ông Tô Lâm sẽ duy trì tư duy khá cổ điển, có nghĩa là chính sách « ngoại giao cây tre » nổi tiếng. Mô hình ngoại giao này không phải do ông Nguyễn Phú Trọng tạo ra mà đã có từ rất lâu trong nền chính trị Việt Nam. Và tôi nghĩ ông Tô Lâm sẽ tiếp tục chiến lược này.
RFI :Các đối tác phương Tây sẽ có hình ảnh như thế nào về chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Tô Lâm, cũng như về chính phủ Việt Nam khi những kỷ niệm mà ông Tô Lâm để lại ở Đức và Slovakia không hẳn tốt đẹp lắm trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ?
Benoît de Tréglodé : Trước tiên, thường thì người ta chóng quên những chuyện liên quan đến chính trị. Tôi cho rằng chủ nghĩa thực dụng đang chiếm ưu thế và đặc biệt là đối với các đối tác lớn nước ngoài đang làm việc với Hà Nội, cũng như những đại tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và các nước đang mong muốn tăng cường hợp tác song phương với Việt Nam. Những hành xử độc đoán trong quá khứ sẽ bị lãng quên khá nhanh chóng.
Hơn nữa, trong vòng một năm rưỡi cho đến kỳ Đại hội đảng lần tới, ông Tô Lâm sẽ tiếp tục công cuộc mà Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện, tức là cách thức mà cố tổng bí thư đã xây dựng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và trong khu vực với một lập trường khá khéo léo, uyển chuyển giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và tất nhiên là vị trí của Việt Nam trong khu vực, như trong khối ASEAN hoặc với các cường quốc Đông Bắc Á. Đứng từ quan điểm này, chủ trương chuyên chế về chính trị với trong nước của ông Tô Lâm sẽ được phối hợp với một chủ nghĩa thực dụng về kinh tế cực kỳ mạnh mẽ.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứuBenoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
Mon, 22 Jul 2024 - 181 - Việt Nam trước chiến lược “mưa dầm thấm lâu” của Trung Quốc để độc chiếm Biển Đông
Ngày 12/07/2024 đánh dấu tròn 8 năm Tòa Trọng Tài Quốc Tế xác định rằng các yêu sách hàng hải mở rộng của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phán quyết cuối cùng của Tòa đã được Việt Nam “hoan nghênh” cùng với tuyên bố “ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình”.
Tám năm sau, Việt Nam, Philippines vẫn phải đối phó với những hành động bạo lực, hăm dọa của Trung Quốc trong chiến lược “mưa dầm thấm lâu” độc chiếm Biển Đông (1). “Các hành động của Trung Quốc phản ánh sự coi thường trắng trợn đối với luật pháp quốc tế”, theo thông cáo của ngoại trưởng Mỹ ngày 11/07. Phía Liên Hiệp Châu Âu khẳng định trong một tuyên bố ngày 12/07 rằng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các bên liên quan. Tuy nhiên, đối với Bắc Kinh, chỉ có luật quốc gia của Trung Quốc mới có giá trị ở Biển Đông, theo nhận định của nhà phân tích, nghiên cứu độc lập Lénaïck Le Peutrec trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt ngày 11/07/2024.
Chiến lược này được ban thành luật về vùng lãnh hải tháng 02/1992. Thoạt nhìn định nghĩa “lãnh hải” của Bắc Kinh phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà Trung Quốc là thành viên. Nhưng điểm nguy hiểm nằm ở tuyên bố 1958, được nhắc lại trong bộ luật 1992, theo đó lãnh thổ đất liền của Trung Quốc bao gồm Đài Loan và các nhóm đảo khác như Sankaku/Điếu Ngư (tranh chấp với Nhật Bản), Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), Nam Sa (quần đảo Trường Sa).
RFI : Lénaïck Le Peutrec, bà là tác giả bài phân tích “Trung Quốc trong những xung đột ở Biển Đông : giải mã một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa”, đăng trênAsia Focustháng 05/2024 của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến lược Pháp - IRIS(2). Trong bài viết, bà nhấn mạnh rằng luật về lãnh hải năm 1992 là một bộ luật quốc gia, thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục những đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông theo từng chặng, để tạo thành những “chuyện đã rồi” bất chấp luật pháp quốc tế. Theo thời gian, những tích tụ đó chuyển thành một sự thay đổi chiến lược quan trọng. Vậy chiến lược của Trung Quốc là gì ? Liệu vì những yêu sách đó, Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng ở Biển Đông ?
Lénaïck Le Peutrec : Những yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông nằm trong nỗ lực toàn vẹn lãnh thổ rộng lớn hơn của Trung Quốc. Cho nên chúng được ghi khắc trong những lợi ích cơ bản của Trung Quốc, giống như đối với đảo Đài Loan. Bắc Kinh đưa ra lập luận đòi chủ quyền dựa vào các quyền lịch sử, nguyên tắc hiện diện lâu đời được cho là được chứng thực bằng các văn bản có từ thời nhà Tống, tức là từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 13.
Do đó, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với 80 đến 90% diện tích Biển Đông. Yêu sách này được chính thức ghi trong tài liệu “đường 9 đoạn”, lần đầu tiên được chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chính thức bằng một công hàm ngoại giao gửi tới Liên Hiệp Quốc vào tháng 05/2019. Bản thân tuyên bố này đã là một hành động kiểu “chuyện đã rồi”. Thêm vào đó còn có rất nhiều luật quốc gia khác củng cố cho những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và Bắc Kinh viện vào đó để biện minh cho hành động của họ.
Đọc thêm : Biển Đông: Trung Quốc toan tính gì khi lập 2 ‘quận’ mới cho ‘Tam Sa’ ?Như vậy luật về vùng lãnh hải năm 1992 đã chọn định nghĩa rộng hơn về các vùng biển của Trung Quốc, trên thực tế bao gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, trong khi Philippines, Việt Nam và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền. Chính nhờ dựa vào những quyền lịch sử từ xa xưa, không thể chối cãi ở Biển Đông và dựa trên luật pháp quốc gia xác quyết chủ quyền - được coi là “chuyện đã rồi” - mà Trung Quốc liên tục đưa tầu đánh cá vào các vùng biển có tranh chấp, thường xuyên tổ chức tuần tra hải cảnh, tiến hành hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo và thành lập các đơn vị, cơ quan hành chính mà trên thực tế là để thiết lập chủ quyền.
RFI :Tháng 03/2024, Trung Quốc thông báo xác lập đường cơ sở ở vịnh Bắc Bộ. Thêm vào đó là hành động hung hăng, ví dụ những sự cố với Philippines ở Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough trong thời gian gần đây… Phải chăng tất cả những hành động đó nằm trong chiến lược khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ?
Lénaïck Le Peutrec : Việc phân định đường cơ sở là một chủ đề hết sức nhạy cảm ở Biển Đông để chúng ta có thể hiểu được bản chất chiến lược. Bởi vì Biển Đông là nơi chồng chéo những yêu sách chủ quyền giữa phần lớn các quốc gia ven biển. Các đường cơ sở có tính chiến lược mạnh mẽ vì chúng chi phối việc tính toán đường biên giới lãnh thổ của quốc gia ven biển, vùng nội thủy và các vùng biển nằm trong quyền tài phán của họ. Những vùng biển này là các vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế.
Đọc thêm : Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?Qua đó, người ta có thể thấy đó là “cánh tay nối dài” trong hành động áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên thực tế. Như tôi giải thích, phương thức hoạt động của Bắc Kinh bắt đầu từ một “chuyện đã rồi”. Trường hợp này chính là một ví dụ vì Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường cơ sở mới. Điều đáng quan ngại là Trung Quốc tiếp tục áp dụng cách hành động duy nhất đó, có nghĩa là viện đến luật quốc gia để áp đặt cơ sở pháp lý cho những hành động của họ.
Những sự cố gần đây trong khu vực Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough nằm trong chiến lược hành động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2004. Cần phải lưu ý rằng những hành động này còn được củng cố thêm nhờ những biện pháp mới trong luật hải cảnh, có hiệu lực từ ngày 15/06/2024, cho phép bắt giữ tàu nước ngoài ở Biển Đông và giam giữ thủy thủ đoàn mà không cần xét xử.
RFI :Vẫn trong bài viết trên Asia Focus của Viện IRIS, bà nhấn mạnh rằng “chính sách láng giềng hữu hảo của Trung Quốc hiện nay, được suy tính để cổ vũ việc hội nhập kinh tế trong vùng, có thể được coi là một tầm nhìn được cập nhật về hệ thống triều cống của đế quốc Trung Quốc”. Tại sao nên cảnh giác với chính sách này ? Các nước láng giềng sẽ gặp rủi ro gì trong xung đột chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?
Lénaïck Le Peutrec : Trong câu hỏi này có những yếu tố lịch sử và văn hóa mà tôi cho rằng cần phải nêu bật, song song với những yếu tố thực tế, để hiểu đầy đủ hơn về hành động của Trung Quốc.
Yếu tố đầu tiên mà tôi muốn lưu ý là tầm nhìn mang tính chu kỳ về lịch sử mà Trung Quốc vẫn chia sẻ. Điều này có thể được tóm tắt hoàn hảo trong câu tục ngữ Trung Quốc, tạm dịch “thống nhất lâu dài thì phải chia cắt, chia rẽ lâu thì phải đoàn tụ”. Nền văn minh Trung Quốc được đánh dấu bằng một lập luận lịch sử, theo đó “sau phân chia sẽ là sự thống nhất”.
Điểm thứ hai, tôi muốn đề cập đến cách nhìn của Trung Quốc về vị trí trung tâm. Ngay tên gọi “Trung Quốc” - có nghĩa là “vùng đất ở giữa” - đã thể hiện rõ cách nhìn đó. Xuất phát từ vị trí trung tâm, Trung Quốc sống theo cách hiểu về địa lý thế giới xung quanh được định nghĩa theo cách nhìn của họ. Có thể thấy đa số những vùng lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông được đặt tên theo vị trí của chúng so với Trung Quốc, ví dụ quần đảo Hoàng Sa (Paracels) được gọi là Tây Sa, Trường Sa (Spratleys) là Nam Sa, bãi ngầm Macclesfield là Trung Sa.
Đọc thêm :Khó khăn kinh tế Trung Quốc đe dọa ASEANChính sách láng giềng hữu hảo của Bắc Kinh cũng thể hiện một phần tầm nhìn về vai trò trung tâm của Trung Quốc. Trên thực tế, chính sách - được lập ra để khuyến khích hội nhập kinh tế khu vực - có thể được coi như là một quan niệm được cập nhật về hệ thống triều cống của đế chế Trung Hoa, dựa trên tính trung tâm của họ. Những điều kiện dễ dàng về kinh tế và thương mại được Trung Quốc chấp thuận thời nay thay thế cho sự bảo vệ của họ ngày trước, còn quyền lực và những lợi ích mà họ thu được thay cho những cống vật của các nước chư hầu ngày xưa. Tình thế này để lại rất ít khả năng hành động cho các nước ven biển láng giềng - những nước không có sức mạnh kinh tế hoặc năng lực tấn công quân sự như Trung Quốc.
Cuối cùng phải nhắc đến việc ASEAN gần như tê liệt. Nội bộ Hiệp hội các nước Đông Nam Á bất đồng nhau trong xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Từ nhiều năm nay, ASEAN tìm cách thông qua một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) mà họ muốn có tính ràng buộc về mặt pháp lý nhưng đến giờ vẫn bị Bắc Kinh một mực phản đối.
RFI :Tại sao Biển Đông lại là một khu vực thử nghiệm để Trung Quốc áp đặt tầm nhìn của họ về một trật tự thế giới mới, như bà nêu trong bài phân tích ?
Lénaïck Le Peutrec : Trước tiên, tôi nghĩ là cần phải hiểu được những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông hay đúng hơn là những động cơ của họ. Theo tôi, có ba động cơ.
Thứ nhất về mặt khai thác, việc bảo đảm tiếp tục các hoạt động đánh bắt hải sản, bảo vệ và khai thác các nguồn năng lượng, khoáng sản là việc cần thiết cho sự thúc đẩy phát triển của Trung Quốc. Tiếp theo là phải bảo đảm các nguồn tiếp cận với các tuyến hàng hải, đặc biệt là ưu tiên tiếp cận Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vì đây là những tuyến đường thiết yếu để dòng chảy thương mại của Trung Quốc được luân chuyển. Về mặt an ninh, việc tự do lưu thông ở Biển Đông là phương tiện quan trọng cho uy tín về năng lực răn đe trên biển của Trung Quốc. Phần lớn các căn cứ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Trung Quốc nằm trên đảo Hải Nam, ở phía bắc Biển Đông.
Đọc thêm :Vai trò trung tâm của ASEAN trước thách thức của cạnh tranh Mỹ - TrungCũng đừng quên sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ trong khu vực làm tăng thêm cảm giác bất an của Trung Quốc, cũng như việc Hoa Kỳ tăng cường rõ rệt các liên minh với các nước trong khu vực trong thời gian gần đây để công khai chống lại sự trỗi dậy ngày càng tăng của Trung Quốc. Cấu trúc địa lý của Biển Đông cũng đặt Trung Quốc vào thế bị lọt thỏm và phụ thuộc lớn vào eo biển Malacca, tuyến đường thương mại chính của nước này. Từ năm 2023, Trung Quốc đã nhấn mạnh đến sự phụ thuộc quá mức của họ vào điểm trung chuyển này, cùng với sự bấp bênh về nguồn cung năng lượng do thiếu tuyến hàng hải thay thế.
Bị thúc đẩy vì cảm giác bất an, Trung Quốc quyết tâm bảo đảm các lợi ích cơ bản của họ, bao gồm cả việc thống nhất đất nước, vốn là trọng tâm trong chính sách tái sinh vĩ đại của Trung Quốc và cũng là chính sách quan trọng hàng đầu của kỷ nguyên Tập Cận Bình. Những động cơ này của Trung Quốc khiến chúng ta nghĩ rằng Bắc Kinh có lẽ sẽ thử phản ứng của cộng đồng quốc tế về Biển Đông bằng cách dần dần gặm những không gian mà họ tuyên bố thuộc về mình. Do đó, Biển Đông sẽ là địa điểm thử nghiệm đầu tiên về một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa, trước khi chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là thống nhất với đảo Đài Loan.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà phân tích, nghiên cứu Lénaïck Le Peutrec.
(2) Lénaïck Le Peutrec, "La Chine dans les conflits en mer de Chine méridionale : décryptage d’un nouvel ordre aux caractéristiques chinoises", Asia Focus, mai 2024, IRIS.
Mon, 15 Jul 2024 - 180 - Việt Nam không ngại bị chỉ trích khi đón tổng thống Putin bị CPI truy nã vì "tội ác chiến tranh"
Khi tiếp tổng thống Vladimir Putin, Hà Nội muốn "viết tiếp chương mới trong lịch sử quan hệ hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga" (1). Việt Nam không có lợi khi Nga suy yếu hoặc bị gạt ra ngoài lề trên trường quốc tế vì đối tác chiến lược toàn diện này giúp Hà Nội cân bằng trước những áp lực từ Trung Quốc và Mỹ (2).
Việt Nam đã lường mọi phản ứng khi mời và tiếp đón tổng thống bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã vì phạm "tội ác chiến tranh" ở Ukraina.
Chuyến công du của ông Putin được quảng bá rầm rộ hơn hẳn những chuyến thăm cấp Nhà nước trước đó dù Hà Nội phần nào lo ngại bị phương Tây cho là "liên kết ngầm" khi ông Putin kết hợp với chuyến thăm Bình Nhưỡng (3). Hiện giờ, chỉ có Mỹ lên tiếng chỉ trích nhưng đồng thời cử ngay trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ, phụ trách Đông Á - Thái Bình Dương Daniel Kritenbrink đến Hà Nội. Đặc sứ Mỹ không bình luận về đối ngoại của Việt Nam nhưng lưu ý "chỉ có Việt Nam có thể quyết định cách tốt nhất để bảo vệ chủ quyền và thúc đẩy các lợi ích".
Vậy Hà Nội tính toán gì và được lợi gì khi tiếp đón tổng thống Nga Putin ? Phản ứng của các đối tác phương Tây sẽ ra sao ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Normale Supérieure, Lyon, Pháp.
RFI : Tổng thống Nga Vladimir Putin đến thăm Việt Nam cấp Nhà nước sau chuyến công du Bắc Triều Tiên trong khi ông Putin đang bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã vì phạm tội ác chiến tranh ở Ukraina. Mục đích chuyến công du Việt Nam của nguyên thủ Nga là gì ? Việt Nam tính toán gì khi tiếp tổng thống Putin ?
Laurent Gédéon : Đúng vậy, ông Vladimir Putin công du Việt Nam ngày 20/06 theo lời mời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, được đưa ra khá gần đây, trong cuộc điện đàm ngày 26/03/2024 với tổng thống Nga. Cho nên chuyến công du phản ánh rõ mong muốn của cả Nga lẫn Việt Nam. Công du Việt Nam không phải là chuyện mới đối với tổng thống Nga vì ông đã tới Việt Nam 4 lần : hai chuyến thăm cấp Nhà nước năm 2001, 2013 và hai lần tham gia thượng đỉnh hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương - APEC tại Đà Nẵng năm 2006 và 2017. Chuyến thăm hôm 20/06 ở cấp Nhà nước, với nghi thức cao nhất, là lần thứ năm ông đến Việt Nam và phải nói là đáng kể, đồng thời cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nga dành cho Việt Nam.
Đối với Hà Nội, chuyến công du của tổng thống Putin mang lại nhiều lợi ích : Tăng uy tín quốc tế của Việt Nam ; gửi thông điệp đến Trung Quốc rằng Việt Nam không đơn độc và có thể dựa vào nhiều nhân tố lớn mạnh, kể cả liên quan đến vấn đề Biển Đông ; gửi thông điệp đến Hoa Kỳ ; tăng cường mối quan hệ với Nga. Nghi lễ đón tiếp trang trọng, nồng nhiệt, nhất là việc chính phủ Việt Nam nhấn mạnh đến tính chất đặc biệt của mối quan hệ với Nga cho thấy rằng đối với Hà Nội, cuộc gặp này là cơ hội để nâng cao mối quan hệ với một đất nước mà họ coi là "một trong những đối tác chính trong chính sách đối ngoại của Việt Nam", theo phát biểu của chủ tịch nước Tô Lâm. Về mặt ý nghĩa biểu tượng, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng muốn cho thấy rằng sự ủng hộ của Liên Xô trong chiến tranh Đông Dương và Cam Bốt vẫn chưa bị lãng quên.
Đọc thêm : Tổng thống Vladimir Putin chờ đợi gì ở Việt Nam ?Dĩ nhiên, phía Nga cũng được lợi vì chuyến công du giúp Matxcơva khẳng định rằng họ không bị cô lập, họ có bạn ở khắp nơi trên thế giới, giúp tăng cường tính chính đáng ngoại giao của Nga, giữ cân bằng với Trung Quốc, đồng thời gửi thông điệp đến Hoa Kỳ rằng nỗ lực của phương Tây nhằm cô lập tổng thống Nga đã thất bại. Do đó, có thể thấy sự hội tụ lợi ích giữa Việt Nam và Nga trong khuôn khổ chuyến công du này.
Bối cảnh của chuyến công du cũng rất đặc biệt vì có rất nhiều hoạt động ngoại giao. Trước tiên là kỷ niệm 30 năm Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị, được Việt Nam và Nga ký ngày 16/06/1994. Tiếp theo là sắp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương (tháng 01/1950). Ngoài ra, Việt Nam nằm trong số 12 nước được mời tham dự đối thoại BRICS với các nước đang phát triển, được tổ chức tại Matxcơva ngày 11/06. Cuối cùng, vào đầu tháng 03, Việt Nam và Nga đã tổ chức đối thoại chiến lược lần thứ 13 về ngoại giao, an ninh-quốc phòng.
Về mặt địa chiến lược, cần lưu ý là chuyến công du diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Philippines và Trung Quốc, đặc biệt là vụ va chạm ngày 17/06 giữa thủy thủ hai nước khi tàu của Philippines tiếp viện cho lực lượng đồn trú trên con tàu bị mắc kẹt ở Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal).
RFI :Chuyến thăm của tổng thống Nga Vladimir Putin có những tác động như thế nào đối với Việt Nam ?
Laurent Gédéon : Chuyến công du này cho thấy rõ mong muốn hợp tác chính thức với những mục tiêu được thể hiện chi tiết rõ ràng. Hai nước tăng cường mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, kinh tế, công nghệ, nhân đạo, khoa học, năng lượng, giáo dục, du lịch và văn hóa. Chúng ta cũng thấy tổng thống Putin đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề điện hạt nhân dân sự và khả năng các công ty Nga tham gia vào lĩnh vực này ở Việt Nam.
Ngoài ra, vấn đề tăng cường đối tác chiến lược giữa hai nước cũng được đặt ra. Thứ nhất về lĩnh vực vũ khí, theo như tôi biết là không được nêu đích danh, nhưng phải nhắc lại rằng Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam. 90% vũ khí được Hà Nội nhập khẩu từ 1995 đến 2015 là của Nga. Cuộc chiến ở Ukraina giúp Nga quảng cáo một số loại vũ khí với các đối tác, trong đó có Việt Nam.
Đọc thêm : Nga nướng vũ khí ở Ukraina, Việt Nam lo nguồn cung thiếu hụtTuy nhiên, ở đây chúng ta có thể đặt ra câu hỏi về sự phụ thuộc của Việt Nam, khá là đáng báo động, vào vũ khí Nga nếu nhìn vào bối cảnh tế nhị của cuộc chiến ở Ukraina và sự điều chỉnh thế cân bằng ở Á-Âu, nơi Trung Quốc ngày càng có ảnh hưởng đáng kể. Nga không có hiệp ước phòng thủ chung với Việt Nam, không giống như hiệp ước mà tổng thống Putin vừa tái kích hoạt với Bắc Triều Tiên. Do đó, có thể hỏi liệu Matxcơva có sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam bảo vệ lãnh thổ hay không trong khi Nga cũng phụ thuộc về ngoại giao và công nghệ vào Trung Quốc ? Đây là một câu hỏi rất quan trọng trong bối vũ khí Nga chiếm gần như toàn bộ trong quân đội Việt Nam.
Tiếp theo là tác động trong lĩnh vực dầu khí khi biết rằng Matxcơva là đối tác ngày càng quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực này. Rất nhiều tập đoàn lớn của Nga như Gazprom chiếm phần lớn hoạt động trong lĩnh vực dầu khí ở Việt Nam. Về mặt kinh tế nói chung, theo số liệu, hợp tác Nga-Việt gia tăng đáng kể, cụ thể trao đổi thương mại song phương đạt 3,63 tỷ đô la năm 2023, tăng 2,3% so với năm trước. Chỉ riêng 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Nga đạt 1,96 tỷ đô la, tăng 51,4% trên một năm. Có rất nhiều nhà đầu tư Nga ở Việt Nam, tham gia vào 186 dự án với tổng số vốn là 984,98 triệu đô la, giúp Nga đứng hàng thứ 28 trong số 145 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Phía Việt Nam đã đầu tư vào 18 dự án ở Nga, với tổng trị giá khoảng 1,63 triệu đô la.
Cuối cùng về hệ quả chính trị hay ngoại giao, có thể chuyến công du của tổng thống Putin không gây tác động quá lớn về mặt ngoại giao cho Việt Nam.
RFI : Vậy hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ bị ảnh hưởng như thế nào khi Hà Nội tiếp một tổng thống gây chiến ở Ukraina từ ba năm nay ?
Laurent Gédéon : Tôi nghĩ rằng hình ảnh của Việt Nam sẽ ít bị tác động bởi vì Hà Nội khá là kín tiếng về chủ đề Ukraina. Việt Nam vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu ngày 02/03/2022 về nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc lên án cuộc xâm lược của Nga ở Ukraina. Sau đó, Việt Nam đã bỏ phiếu chống việc loại Nga khỏi Hội Đồng Nhân Quyền tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 07/04/2022. Gần đây Việt Nam cũng không tham dự hội nghị về hòa bình cho Ukraina, diễn ra ở Thụy Sĩ ngày 15-16/06.
Tại Hà Nội, tổng thống Putin nhấn mạnh đến việc Nga và Việt Nam có cách nhìn "tương đồng" về tình hình châu Á-Thái Bình Dương. Ông cũng nhấn mạnh đến những nỗ lực của Hà Nội "để bảo vệ một trật tự thế giới cân bằng, dựa trên những nguyên tắc bình đẳng của tất cả các nước và không can thiệp vào chuyện nội bộ của nhau".
Đọc thêm : Lời mời tổng thống Nga Putin thăm Việt Nam và thế cân bằng khó khăn của Hà NộiDù trong bối cảnh tế nhị như vậy, việc tái khẳng định mối quan hệ Việt-Nga có lẽ không tác động đến hình ảnh của Hà Nội chừng nào nền "ngoại giao cây tre" - đa phương, linh hoạt và thận trọng - vẫn vận hành. Đây là chiến lược tập trung phát triển quan hệ đối tác với nhiều nước, đôi khi thuộc các khối đối lập, mà vẫn giữ được độc lập và lợi ích quốc gia. Chính điều này giúp Việt Nam duy trì thế cân bằng giữa các siêu cường đối thủ : Trung Quốc, Nga và Mỹ. Do đó, Nga là một đối trọng hữu ích để Việt Nam đối phó với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Về mặt truyền thông ngoại giao, chuyến thăm của Putin là cơ hội để Hà Nội chứng tỏ rằng chính sách đối ngoại của họ là cân bằng, không thiên vị bất kỳ cường quốc nào.
Vì vậy tôi cho rằng Việt Nam sẽ chỉ bị ít hệ quả tiêu cực nhưng thu được lợi ích về kinh tế và ngoại giao nhiều hơn.
RFI :Ngay sau khi ông Putin rời Hà Nội,ông Daniel Kritenbrink,trợ lý ngoạiMỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương đã đến Việt Nam ngày 21/06. Hoa Kỳ và các nước phương Tây sẽ phản ứng ra như thế nào đối với Việt Nam ? Liệu sẽ có hình thức trừng phạt nào đó hay chỉ là những lời chỉ trích ?
Laurent Gédéon : Việt Nam, giống như Nga, Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ, không tham gia Tòa Án Hình Sự Quốc Tế nên không bận tâm đến lệnh bắt của Tòa nhắm vào tổng thống Nga vì bị cáo buộc gây tội ác chiến tranh ở Ukraina. Cần lưu ý là trước chuyến công du Việt Nam, tổng thống Nga đã đến Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất ngày 06/12/2023 và các nước phương Tây chỉ đưa ra những phát biểu phản đối.
Đọc thêm : Nga xâm lược Ukraina và “Ngoại giao cây tre” của Việt NamHoa Kỳ đã phản ứng, chủ yếu thông qua phát biểu của người phát ngôn Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội. Ông tuyên bố : "Không một nước nào nên trao cho ông Putin một diễn đàn để cổ vũ cuộc chiến xâm lược của ông ta và cho phép ông tác bình thường hóa những tội ác". Ông cũng nói thêm rằng "nếu ông Putin có thể tự do đi lại, điều đó có thể sẽ khiến những vụ vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế của Nga trở thành chuyện bình thường". Cho nên Mỹ rất chú ý đến những gì đang diễn ra ở Việt Nam.
Tổng thống Mỹ Joe Biden công du Việt Nam ngày 10-11/09/2023 và hai bên đã ký thỏa thuận "Đối tác chiến lược toàn diện", mức cao nhất của Hà Nội. Sau đó, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng đến thăm Việt Nam ngày 12-13/12/2023. Có thể thấy Việt Nam rất được "chú ý" vì có tầm quan trọng địa-chính trị ở trong vùng. Trong bối cảnh đó, ít có khả năng Hoa Kỳ, cũng như Liên Hiệp Châu Âu hay những nước phương Tây khác, vượt qua ngưỡng phát biểu bày tỏ bất bình đối với Hà Nội sau chuyến công du của nguyên thủ Nga.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Normale Supérieure, Lyon.
(1) "Viết tiếp chương mới trong lịch sử quan hệ hữu nghị Việt Nam-Liên bang Nga", Nhân Dân, 06/2024.
(2) (3) Thayer Consultancy, Background Brief : Russia’s Putin to Visit Vietnam: Scene Setter – 4, June 17, 2024.
Mon, 24 Jun 2024 - 179 - Pháp triển khai dự án hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu tại 15 tỉnh Việt Nam
Việt Nam có 3.200 km bờ biển, phải đối mặt thường xuyên với giông bão, lũ lụt, sạt lở. Khoảng 30% diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị nhấn chìm nếu nước biển dâng khoảng 50 cm. Dân số dự kiến đạt đến 120 triệu người từ nay đến 2030 trong khi nền kinh tế vẫn phát thải khí CO2 vì 42% sản lượng điện vẫn phụ thuộc vào than đá.
Là một trong 5 nước không phải là đảo quốc bị tác động mạnh vì biến đổi khí hậu, Việt Nam đã đặt ra nhiều tham vọng lớn để đạt mục tiêu trung hòa khí phát thải cho đến năm 2050. Trong hành trình này, Pháp khẳng định sát cánh với Việt Nam.
Thông qua nhiều dự án tài trợ trực tiếp hoặc trong khuôn khổ các thỏa thuận với các đối tác quốc tế (JETP của G7, Liên Hiệp Châu Âu, Na Uy và Đan Mạch hoặc chiến lược GlobalGateway của Liên Hiệp châu Âu…), chính phủ Pháp, cũng như Cơ quan Phát triển Pháp (Agence Français de Développement, AFD), thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam, giúp Việt Nam khắc phục một số hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra.
Để hiểu hơn về các dự án đang và sắp được triển khai, đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet đã trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt ngày 13/06/2024.
RFI :Hai dự án tài trợ tài chính của Liên Hiệp Châu Âu và của Pháp nhằm đầu đối phó với tác động của biến đổi khí hậu đã được thông báo vào tháng Ba vừa qua. Dự án thứ nhất ở thành phố HộiAn, tỉnh Quảng Nam và dự án thứ hai ở thành phố Đông Hà, tỉnh quảng Trị. XinĐại sứ cho biếttình hìnhkhẩn cấpđến mức độ nào đểgiải thích cho việclựachọn hai địa phương này ?
Đại sứOlivier Brochet : Trước tiên cần phải nhắc lại rằng Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tại Việt Nam tập trung vào các dự án về khí hậu. Có nghĩa là những nguồn tài chính của Cơ quan Phát triển Pháp là nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng, và chủ yếu là vì lợi ích của ngành điện Việt Nam, của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, hoặc nhằm để thích ứng với biến đổi khí hậu và trường hợp này chủ yếu có lợi cho các tỉnh.
Đọc thêm :Cơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậuTrong trường hợp thứ hai này, với hai dự án nêu trên là do bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam đã đề nghị Cơ quan Phát triển Pháp đầu tư tài chính. Dự án ở Hội An liên quan đến xói lở bờ biển đang diễn ra rất nhanh, cấp bách. Cho nên dự án tài trợ đó nhằm mục đích hạn chế xói mòn bờ biển, nhất là bảo vệ các bãi biển trong khu khách sạn ven biển Hội An. Về dự án ở Đông Hà, đó là do thành phố này bị lũ lụt thường xuyên, cho nên cần phải hỗ trợ nỗ lực phòng chống lũ lụt của thành phố. Công trình được tiến hành ở lưu vực thượng nguồn để cố gắng tránh các trận lũ lụt thường xuyên ở các khu vực trung tâm.
Tôi điểm sơ qua về nguồn gốc của hai dự án nhưng cả hai cùng nằm trong chính sách chung do Pháp, đặc biệt là do cơ quan AFD tại Việt Nam, tiến hành vì lợi ích của các tỉnh và dĩ nhiên là có dự hỗ trợ của Liên Hiệp Châu Âu, cũng như Quỹ WARM (Water and Natural Resources Management Facility - Quỹ Quản lý Nước và Tài nguyên Thiên nhiên ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam) nhằm mục đích hỗ trợ tất cả các dự án tăng cường năng lực đối phó với biến đổi khí hậu.
RFI : Việt Nam nằm trong số 5 nước không phải là đảo dễ bị tác động nhất trước những hệ quả của biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, còn có những địa phương nào cần sự hỗ trợ và kinh nghiệm chuyên ngành của Pháp và Liên Hiệp Châu Âu ?
Đại sứ Olivier Brochet : Tôi nghĩ, có thể nói là tất cả các tỉnh ở Việt Nam đều dễ bị tác động do hệ quả của biến đổi khí hậu. Như chị nhắc ở trên Việt Nam là một trong số 5 nước không phải là đảo bị tác động nặng nề và sẽ còn bị như vậy. Có thể thấy việc này qua các trận ngập lụt, xói lở bờ biển, nước mặn xâm lấn hoặc ngược lại là tình trạng hạn hán nghiêm trọng ở nhiều vùng, cho nên cần phải can thiệp ở khắp nơi.
Đọc thêm :Pháp, Mỹ hỗ trợ Việt Nam chống biến đổi khí hậuHiện nay, Cơ quan Phát triển Pháp có dự án tại khoảng 15 tỉnh ở Việt Nam theo đề nghị của UBND những tỉnh mà chúng tôi duy trì mối quan hệ, đôi khi có từ lâu, và thực hiện chung nhiều dự án trước đó. Chúng ta mới nêu hai ví dụ nhưng còn nhiều dự án khác nữa. Tôi muốn nhấn mạnh đặc biệt đến ba dự án mà Cơ quan Phát triển Pháp điều phối ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nơi rất dễ bị tác động trong tương lai vì 50% diện tích đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ bị chìm dưới nước từ nay đến cuối thế kỷ vì nhiều lý do và đang chịu nhiều vấn đề rất trầm trọng. Ví dụ cơ quan AFD can thiệp ở Cà Mau với một dự án cũng liên quan đến xói lở bờ biển để hạn chế hiện tượng này. Còn dự án thứ hai là ở Hậu Giang về xử lý các vụ ngập lụt trong thành phố. Cả hai dự án đã được phê chuẩn và sắp được ký duyệt. Còn một dự án khác ở Vĩnh Long nhằm chống xâm nhập mặn và củng cố bờ sông.
RFI :Đại sứ nêu ít nhất 5 dự án ở trên, liệu cơ quan AFD có giám sát, hỗ trợ hoặc chuyển giao kinh nghiệm cho đối tác Việt Nam để các dự án này bền vững sau khi đi vào hoạt động trong tương lai không ?
Đại sứOlivier Brochet : Có, tất cả những dự án này trước đó đều được thảo luận khá kỹ lưỡng về kỹ thuật để xác định chính xác những nhu cầu về thiết bị, về vật liệu, về công trình, cũng như nhu cầu về hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nhân viên - những người chịu trách nhiệm quản lý những vấn đề này. Và Quỹ Quản lý Nước và Tài nguyên Thiên nhiên - WARM do Liên Hiệp Châu Âu triển khai rất hữu ích cho việc này vì cho phép tài trợ, thông qua hình thức trao tặng, những chương trình hỗ trợ kỹ thuật này. AFD được Quỹ WARM tài trợ khoảng 2 triệu euro hàng năm cho tất cả các dự án của cơ quan nhằm hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật cho cho các UBND tỉnh.
RFI :Tại hội nghị khí hậu COP 26, Việt Nam đã thông báo nhiều mục tiêu đầy tham vọng. Pháp và nhóm G7 sẵn sàng giúp Việt Nam thực hiện thông qua chương trình Thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Bình đẳng - JETP. Vậy đâu là những hướng đi để đạt được những mục tiêu đó ?
Đại sứOlivier Brochet : Đúng vậy, Việt Nam đã dũng cảm cam kết và quyết tâm đối phó với vấn đề nhiệt độ nóng lên trên toàn cầu. Tôi xin nhắc lại những cam kết được đưa ra tại COP 26, đó là trung hòa khí CO2 vào năm 2050, thoát khỏi than đá vào thập niên 2040, giảm khí metan mà chúng ta biết ở Việt Nam là rất lớn, đặc biệt do trồng lúa. Đó là những cam kết đầy tham vọng.
Mong muốn của chúng tôi, và tôi cũng cho đó là nghĩa vụ của chúng tôi, là hỗ trợ Việt Nam thực hiện những cam kết được đưa ra. Chính vì thế Pháp đã cam kết với những đối tác khác trong khuôn khổ Thỏa thuận JETP để mang lại hỗ trợ cụ thể cho Việt Nam. Cũng vì thế vào tháng 06/2023, Pháp đã đề xuất Hiệp ước Paris vì Con người và Hành tinh (Pacte de Paris pour les peuples et la planète, 4P). Việt Nam cũng tham gia và nằm trong số 54 nước ký kết. Ý nghĩa của Hiệp ước này là những nước đang phát triển không phải lựa chọn giữa phát triển vì người dân và chống biến đổi khí hậu. Do đó, các nước giàu nhất cũng phải tham gia hỗ trợ những nỗ lực mà các nước phương Nam đã kiên quyết đưa ra. Có thể thấy Pháp đã đưa ra những cam kết chính trị rất rõ ràng, rất mạnh mẽ và chúng tôi đang thực hiện những cam kết đó ở đây.
Tôi vừa nêu ở trên về Thỏa thuận JETP bởi vì Pháp, cùng với các đối tác trong G7, đã cam kết giải ngân 500 triệu euro trong vòng 5 năm và nhiều dự án đầu tiên sắp được thực hiện trong ngân sách này. Một trong những dự án mà tôi nghĩ tới trước tiên là dự án xây thêm một hồ thủy điện cho nhà máy thủy điện Bắc Hà giúp trữ nước, trữ nguồn năng lượng dư thừa từ pin mặt trời trong ngày để sau đó sử dụng nguồn năng lượng này vận hành tua bin nước trong hồ chứa vào buổi tối khi nhu cầu điện tăng cao. Đó là một ví dụ trong số những dự án mà chúng tôi sẽ cấp tín dụng và hiện giờ đang trong giai đoạn đánh giá, định hình.
Ngoài ra phải kể đến sự hỗ trợ lớn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam để cải thiện mạng lưới điện bởi vì đây là một trong những vấn đề lớn mà Việt Nam đang phải đối mặt. Một phần lớn sản lượng điện, đặc biệt là điện tái tạo, được sản xuất ở miền Nam trong khi nhu cầu ở miền Bắc cực kỳ lớn và không được đáp ứng đầy đủ. Do đó phải cải thiện mạng lưới điện giữa miền Bắc và miền Nam để có thể phát triển toàn diện ngành sản xuất năng lượng tái tạo. Và đó cũng là lĩnh vực chúng tôi đang hợp tác với Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Đọc thêm :Kinh nghiệm xây metro của Pháp trong tuyến Nhổn-Ga Hà Nội
Ngoài tài trợ công, Thỏa thuận JETP cũng có những cam kết của các doanh nghiệp và công ty tư nhân để đáp ứng những nhu cầu, trông đợi của Việt Nam. Trong lĩnh vực này, các doanh nghiệp Pháp đã có mặt và tiếp tục cam kết. Tôi chỉ nêu ví dụ của EDF Renewables đang có dự án quan trọng về các loại năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Trong tương lai có thể còn có nhiều dự án khác mà chúng tôi đã bắt đầu suy tính tùy theo chính sách của phía Việt Nam. Pháp có thể mang đến những giải pháp về phát triển lĩnh vực hydro và có thể một ngày nào đó nếu Việt Nam tính đến vấn đề điện hạt nhân.
Trên đây là một chút phác họa về những dự án liên quan đến năng lượng nhưng cũng còn nhiều dự án khác để hướng tới phát triển nền kinh tế ít phát thải cacbon, như dự án di chuyển đô thị, ví dụ trường hợp tài trợ cho tàu điện ngầm ở Hà Nội với tuyến tàu số 3. Hoặc trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, chúng tôi có rất nhiều chương trình nghiên cứu được thực hiện với các đối tác Việt Nam để cải thiện và giảm khí thải cacbon nông nghiệp.
Tiếp theo, chúng tôi làm việc với chính quyền Việt Nam để hỗ trợ triển khai công cụ lập mô hình kinh tế - việc vô cùng cần thiết. Và đây là trường hợp của dự án GEMMES, đã được thực hiện từ nhiều năm qua và giúp chính quyền đưa ra biện pháp, xây dựng chiến lược kinh tế để thích ứng tốt hơn trước những tác động của tình trạng nóng lên toàn cầu, cũng những hệ quả của hiện tượng này. Trên đây là một vài ví dụ về chính sách được Pháp cam kết đồng hành với Việt Nam.
RFITiếng Việtxin chân thành cảm ơn đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet.
Mon, 17 Jun 2024 - 178 - Việt Nam : Ai sẽ thay tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ?
“Tứ Trụ”Việt Nam tạm ổn sau những bất ngờ liên tiếp về nhân sự, đặc biệt với việc hai chủ tịch nước và một chủ tịch Quốc Hội lần lượt từ chức. Giới quan sát quốc tế lưu ý là những xáo trộn trong thượng tầng lãnh đạo không phải là chuyện lạ trước mỗi kỳ Đại Hội đảng nhưng lần này là “chuyện chưa từng có trong lịch sử”, công khai hơn và chưa có dấu hiệu chấm dứt vì còn 19 tháng nữa mới tới Đại Hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV với việc bầu tổng bí thư mới.
Ai sẽ thay thế ông Nguyễn Phú Trọng trong cương vị tổng bí thư đảng ? Câu hỏi này được truyền thông quốc tế quan tâm đặc biệt kể từ khi Quốc Hội phê chuẩn thay đổi nhân sự vào tháng 05/2024 : ông Trần Thanh Mẫn làm chủ tịch Quốc Hội, bộ trưởng Công An Tô Lâm trở thành chủ tịch nước, bà Trương Thị Mai được cho thôi làm đại biểu Quốc Hội và các chức ủy viên bộ Chính Trị, ủy viên ban Chấp hành Trung ương Đảng. Bà Mai là ủy viên bộ Chính Trị thứ 6 phải từ chức từ năm 2022 trong khuôn khổ chiến dịch chống tham nhũng.
Tiêu chí ứng viên : Hoàn thành ít nhất một nhiệm kỳ trong bộ Chính Trị
Bộ Chính Trị hiện nay có 16 ủy viên, thay vì 18 như đầu Đại Hội lần thứ XIII của Đảng năm 2019, với 4 ủy viên mới được bầu bổ sung trong tháng 05/2024. Trong số này chỉ có 12 ủy viên có thể đáp ứng được yêu cầu tiên quyết là hoàn thành ít nhất một nhiệm kỳ 5 năm trong bộ Chính Trị để được đề cử làm tổng bí thư.
Trong số này, hai vị trí trong “Tứ Trụ” được đề cấp nhiều nhất, gồm chủ tịch nước Tô Lâm, thủ tướng Phạm Minh Chính. Cả hai “ứng viên nổi bật” này đều sẽ quá tuổi nghỉ hưu theo quy định là 65 khi diễn ra Đại Hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, dự kiến vào tháng 1/2026 nên sẽ cần được coi là “trường hợp đặc biệt”.
Ông Tô Lâm được các nhà quan sát về chính trị Việt Nam cho là “đang trên đường hướng tới chiếc ghế tổng bí thư”, đặc biệt là vị trí bộ trưởng Công An đã được giao cho cộng sự thân tín của ông là thứ trưởng Lương Tam Quang, theo ghi nhận của trang The Diplomat ngày 07/06. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Futaba Ishizuka, Viện Kinh tế Phát triển JETRO, lưu ý trên trang Nikkei ngày 22/05 : “Việc ông Tô Lâm duy trì ảnh hưởng trong bộ Công An sẽ là một trong những yếu tố then chốt quyết định liệu ông có thể trở thành tổng bí thư hay không”.
Trong loạt bài tổng hợp về “Sự thay đổi lãnh đạo ở Việt Nam” (Leadership change in Vietnam), giáo sư danh dự Carl Thayer, Đại học New South Wales, cho rằng “việc ông Tô Lâm được bầu làm chủ tịch nước có thể được hiểu theo hai cách : ông được đưa lên vị trí chủ yếu mang tính hình thức và giữ chức đến cuối nhiệm kỳ vào tháng 05/2026. Hoặc chức chủ tịch nước có thể được coi là bàn đạp cho vị trí tổng bí thư”. Tuy nhiên, ông Tô Lâm “phải vượt qua được 5 cửa ải” :
“Thứ nhất, thông thường tổng bí thư hiện tại đề cử người kế nhiệm. Tiểu ban nhân sự chuẩn bị cho Đại hội XIV, hiện do tổng bí thư Trọng đứng đầu, phải cân nhắc và phê chuẩn ông Tô Lâm làm ứng viên. Ông cũng phải được coi là “trường hợp đặc biệt” vì sẽ quá 65 tuổi theo quy định nghỉ hưu.
Chặng thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTƯ) hiện nay phải phê chuẩn đề xuất của tiểu ban nhân sự hoặc đạt được đồng thuận về người kế nhiệm. Tiến trình này thường kéo theo nhiều cuộc thăm dò ngẫu nhiên trước khi bỏ phiếu chính thức. Ví dụ, năm 2020, tổng bí thư Trọng đề cử ông Trần Quốc Vượng nhưng ông Vượng đã không nhận được đa số phiếu và cuối cùng là đạt được đồng thuận để ông Trọng tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba. Tóm lại, ông Tô Lâm có hai hướng để đi đến thành công ở chặng hai. Hoặc việc đề cử ông được chấp nhận hoặc ông trở thành một ứng viên được đồng thuận.
Chặng thứ ba, ông Tô Lâm phải nhận được đa số phiếu từ hơn 1.500 đại biểu Đại hội XIV để được bầu vào BCHTƯ mới. Chặng thứ tư, BCHTƯ mới phải bầu ông Tô Lâm vào bộ Chính Trị. Và khi lựa chọn xong bộ Chính Trị, BCHTƯ mới phải bầu ông Tô Lâm làm tổng bí thư”. (1)
Tuy nhiên, vẫn theo giáo sư Carl Thayer, hành trình sẽ không hoàn toàn thuận lợi cho ông Tô Lâm vì ông không được ủng hộ cao, bằng chứng là trong cuộc bỏ phiếu đối với 44 chức danh do Quốc Hội bầu và phê chuẩn năm 2023, ông Lâm có số phiếu “tín nhiệm cao” khá thấp. Đảng Cộng sản Việt Nam ưu tiên đồng thuận nội bộ, trong khi ông Lâm lại là một ứng viên gây chia rẽ.
Ứng viên nặng ký thứ hai cho chức tổng bí thư đảng là thủ tướng Phạm Minh Chính, một trong “Tứ Trụ” hiện vẫn đứng vững. Giáo sư Zachary Abuza, trường National War College (Mỹ), nhận định trên trang Al Jazeera ngày 22/05 rằng sau khi rời ghế bộ trưởng Công An, ông Lâm “khó có thể hạ được ông Phạm Minh Chính”.
Một nhân vật mới cũng gây chú ý là đại tướng Lương Cường, vừa được bổ nhiệm tham gia Ban Bí thư và chức vụ Thường trực Ban Bí thư. Dường như ông Tô Lâm đã không gây được sức ép để trợ lý thân cận của ông là thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc thay thế vị trí của bà Trương Thị Mai. Theo giáo sư Carl Thayer, việc bổ nhiệm tướng Lương Cường “nên được xem như một dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của một liên minh chống lại sự trỗi dậy của ông Tô Lâm hơn là một dấu hiệu cho thấy sức mạnh ngày càng tăng của Quân đội Nhân dân Việt Nam”.
“Ông Lương Cường là ủy viên BCHTƯ từ Đại hội XI. Ông đã hoàn thành nhiệm kỳ đầu ở bộ Chính Trị, đây là điều kiện tiên quyết cho vị trí tổng bí thư. Ông Cường sinh năm 1957 ở tỉnh Phú Thọ, miền bắc Việt Nam, cũng là một lợi thế chính trị. Tuy nhiên, ông sẽ 69 tuổi khi diễn ra Đại hội XIV, có nghĩa là nhiều hơn 4 tuổi theo quy định nghỉ hưu. Cho nên ông cũng cần được coi là “trường hợp đặc biệt”.
Về lý thuyết, ông Lương Cường có nhiều cơ hội trở thành tổng bí thư tương lai. Nhiều tin đồn cho rằng quân đội đang gây sức ép để thanh tra tập đoàn Xuân Cầu (CTCP Xuân Cầu Holdings với công ty TNHH Đầu tư Địa ốc Thành phố (CityLand)) do em trai của ông Tô Lâm điều hành”. (2)
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS-Yosof Ishak Institute, Singapore), cũng cho rằng tướng Lương Cường có thể là một một ứng viên đáng chú ý, nhất là khi ông được “lịch sử ủng hộ”, ý muốn nói đến trường hợp ông Lê Khả Phiêu nhậm chức tổng bí thư từ vị trí thường trực bộ Chính Trị - tương đương với vị trí thường trực ban bí thư hiện nay. Trong khi đó, Việt Nam chưa từng có tổng bí thư nào xuất thân từ ngành công an.
Ngoài ra, theo giáo sư Carl Thayer, căn cứ vào việc bổ nhiệm nhân sự mới đây, có thể có thêm hai ứng viên tiềm năng khác là Trần Cẩm Tú và Trần Thanh Mẫn.
“Cả hai sẽ chưa đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và đều có một nhiệm kỳ 5 năm bắt buộc ở bộ Chính Trị. Ông Mẫn vừa được bầu làm chủ tịch Quốc Hội. Vị trí này từng là bàn đạp cho cả hai nhà lãnh đạo đảng là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng. Ông Tú, thuộc nhánh Nghệ An, là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch chống tham nhũng”. (3)
Tuy nhiên, giáo sư Carl Thayer cũng lưu ý đến một tiêu chí “ngầm” khác là nguyên quán của ứng viên cho chức tổng bí thư, thường là người miền Bắc.
Tổng bí thư đương nhiệm đề cử ứng viên thay thế
Thông thường, tổng bí thư đương nhiệm là người đề cử tên người kế nhiệm. Giám đốc nghiên cứu Benoit de Tréglodé, trường Quân sự Pháp, nhận định với RFI Tiếng Việt rằng có lẽ ông Trọng chưa tìm ra được người kế nhiệm vì đích thân ông làm trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại Hội XIV. Tuy nhiên, tổng bí thư không phải là người toàn quyền quyết định vì đảng Cộng Sản Việt Nam hoạt động dựa trên nguyên tắc tập thể. Thêm vào đó, việc ông Thưởng bị buộc từ chức chủ tịch nước, trong khi ông được coi là người được tổng bí thư che chở, cho thấy ảnh hưởng của ông Trọng đã bị suy giảm phần nào. Giáo sư Carl Thayer nhận định :
“Cần nhớ lại rằng ông Nguyễn Phú Trọng dự Đại hội đảng XIII vào đầu năm 2021 và đề cử ông Trần Quốc Vượng làm người kế nhiệm. Nhưng trong cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương tháng 11/2020, ông Vượng đã không hội đủ được đa số ủng hộ và đã bỏ cuộc. Do đó, ông Trọng không phải là người có quyền lực không thể tranh cãi trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Tại Hội nghị Trung ương 8 vào tháng 10 năm ngoái(2023), kế hoạch cho Đại hội đảng lần tới đã được triển khai. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu tiểu ban nhân sự, phụ trách lựa chọn và bổ nhiệm những ứng viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới sẽ được đưa ra bỏ phiếu tại Đại hội XIV vào đầu năm 2026. Ông Trọng đã chịu nhiều phản ứng tiêu cực vì cách tiếp cận mang tính độc đoán hoặc thiếu đồng thuận.
Vấn đề sức khỏe của ông hiện nay cũng đánh dấu chấm dứt thời kỳ giữ chức tổng bí thư của ông. Những người được lợi hoặc những người đã tận sử dụng chiến dịch chống tham nhũng của ông Trọng, hiện rất chú ý đến việc duy trì ảnh hưởng của họ trong những tháng tới. Bàn tay của ông Trọng suy yếu vì ông Thưởng phải từ chức. Nếu ông Trọng muốn bảo vệ di sản chống tham nhũng và xây dựng đảng, từ giờ ông sẽ phải mặc cả với những “nhóm lợi ích” khác”. (4)
Những nỗ lực chống tham nhũng của tổng bí thư Trọng đáng được hoan nghênh nhưng giáo sư Carl Thayer cũng cho rằng ông Trọng phải cáng đáng trách nhiệm trong việc giám sát tiến trình lựa chọn nhà lãnh đạo sau này bị phát hiện là “giống như những trái táo thối”. Việc ông đứng đầu tiểu ban nhân sự cũng có thể được hiểu là ông muốn chuộc lỗi để lựa chọn khắt khe ứng viên cho các vị trí lãnh đạo sắp tới. Gần 20 tháng trước kỳ Đại Hội có thể được coi là giai đoạn hỗn loạn nếu ông Tô Lâm tìm cách lãnh đạo Đảng nhưng lại bị những người không muốn ông thăng tiến phản đối. Cuộc đấu tranh nội bộ chưa có hồi kết, rất có thể sẽ tiếp tục cho tới Đại Hội lần thứ XIV của Đảng.
*****
(1) Background Brief (Tóm tắt tình hình), Thayer Consultancy, ngày 19/05/2024.
(2) Background Brief, ngày 20/05/2024.
(3) Background Brief, ngày 20/05/2024.
(4) Background Brief, ngày 21/05/2024.
Mon, 10 Jun 2024 - 177 - Việt Nam "mơ" trình độ công nghệ quân sự Bắc Triều Tiên nhưng không đánh đổi kinh tế
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên được thúc đẩy mạnh mẽ trong giai đoạn cuối năm 2018 đến đầu 2019 với đỉnh điểm là chuyến công du Hà Nội của lãnh đạo Kim Jong Un và họp thượng đỉnh với tổng thống Mỹ Donald Trump. Việt Nam thường xuyên được nhắc đến như một điển mẫu về mở cửa để Bình Nhưỡng có thể hướng theo. Tuy nhiên, trên phương diện quân sự và công nghiệp quốc phòng, Bắc Triều Tiên bỏ xa Việt Nam.
Năm 2023, Hà Nội không nhập khẩu vũ khí dù có ngân sách mua sắm hàng năm khoảng 1 tỉ đô la. Nga, nguồn cung lớn nhất của Việt Nam, đang vướng vào chiến tranh Ukraina và bị cấm vận. Israel, một nhà cung cấp khác, dù không bán thiết bị quân sự cho Việt Nam trong những năm gần đây, cũng đang phải tập trung khí tài đối phó với lực lượng Hamas ở dải Gaza. Dù thực hiện chính sách đa dạng hóa nguồn cung vũ khí nhưng dường như Việt Nam gặp trở ngại trong đàm phán với các đối tác mới. Trong khi đó, ngành công nghiệp quốc phòng nội địa mới chỉ sản xuất được những loại vũ khí cơ bản, chưa đủ trình độ để sản xuất các loại khí tài cần công nghệ lõi.
Những thành tựu vượt bậc về quân sự và công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên liệu có phải là một mô hình để Việt Nam theo đuổi ? Bình Nhưỡng sẵn sàng hy sinh kinh tế để củng cố quốc phòng. Trong khi Việt Nam không có chủ trương như vậy. Trên đây là một trong số những nhận định của nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.
RFI : Việt Nam từ lâu được đề cập là nước hỗ trợ lương thực cho Bắc Triều Tiên, nhưng về mặt quốc phòng và công nghiệp quân sự, Bắc Triều Tiên dường như là mô hình để Việt Nam học hỏi ?
Nguyễn Thế Phương : Nhận định này có mặt đúng nhưng có mặt không đúng lắm, theo quan điểm cá nhân của tôi. Quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên sẽ phải xuất phát từ nhu cầu của cả hai bên : Việt Nam cần gì ? Và Bắc Triều Tiên cần gì ? Thực tế mà nói, mối quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên không thực sự suôn sẻ như những gì báo chí đưa ra, từ lịch sử cho tới nay, có nhiều khúc mắc và khúc khuỷu lắm. Đặc biệt khi mà Bắc Triều Tiên có một thể chế tương đối là toàn trị hơn Việt Nam.
Điểm thứ hai, mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên đáng học hỏi nhưng phải xem là cái mô hình đó được xây dựng dựa trên sự đánh đổi nào. Ở đây, Bắc Triều Tiên đánh đổi kinh tế với quốc phòng, hy sinh toàn bộ thiết chế chính trị của họ và tập trung mọi nguồn lực vào quốc phòng. Và rõ ràng sự đánh đổi ở đây, mọi người đều biết là thực trạng kinh tế Bắc Triều Tiên như thế nào. Và Việt Nam rõ ràng không thể áp dụng một cách máy móc tư duy dồn toàn bộ nguồn lực quốc gia vào quốc phòng được. Rõ ràng là khi dồn toàn bộ tiền cho quốc phòng thì chắc chắn sẽ phải đạt được một cái thành tựu nào đó, không đạt được thành tựu thì mới là có vấn đề.
Nhưng mô hình Việt Nam không phải như vậy. Việt Nam không phải là một mô hình toàn trị và coi quốc phòng như là một nền tảng để quản lý quốc gia. Còn Bắc Triều Tiên, vì lịch sử, vì vấn đề địa lý, tư duy, chính trị quốc tế nên họ đã lựa chọn đặt quân đội trên hết. Và chính sách « tiên quân » có từ thời Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) cho tới bây giờ là « song tiến » của Kim Jong Un, tức là vừa kinh tế vừa quốc phòng nhưng thực ra quốc phòng vẫn nổi trội hơn.
Mỗi một mô hình có điểm mạnh và điểm yếu và có vấn đề là họ hy sinh cái gì để họ đạt được mục đích. Việt Nam hiện nay không thể đi theo mô hình như vậy được, mà mô hình của Việt Nam là độc nhất, chỉ phù hợp với đặc trưng kinh tế, xã hội chính trị và quan hệ quốc tế của Việt Nam ở thời điểm hiện tại khi mà nguồn lực của Việt Nam phải được dành cho phát triển kinh tế và phát triển xã hội chứ không chỉ dành hoàn toàn cho cái gọi là « phát triển quốc phòng » được.
Nhưng nói như thế không phải là Việt Nam không có những học hỏi nhất định. Việt Nam vẫn sẽ có một số học hỏi nhất định về trao đổi đoàn, về mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên. Nhưng thực tế mà nói, bởi vì mô hình khác nhau, ưu tiên khác nhau, nên theo cá nhân tôi, thì sự học hỏi đó không cao. Bởi mô hình của Việt Nam hiện tại, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, Việt Nam học hỏi từ hai nước là chủ yếu : Trung Quốc và Nga. Đó là các mô hình lưỡng dụng, theo kiểu tư nhân tham gia vô mô hình đó và toàn bộ « tổ hợp công nghiệp quốc phòng » được đặt trong một mô hình kinh tế thị trường. Bắc Triều Tiên không có nền kinh tế thị trường đó.
Cho nên từ Bắc Triều Tiên có thể học hỏi việc họ phát triển cụ thể ở một số loại vũ khí, khí tài, ví dụ như là quá trình họ phát triển tàu ngầm. Việt Nam hiện nay đang cố gắng xây dựng một hạm đội tàu ngầm từ lớn tới nhỏ, trong đó mô hình xây dựng tàu ngầm mini là mô hình của Bắc Triều Tiên hoặc là một số kỹ thuật hoặc là một số loại vũ khí, ví dụ các loại tên lửa mang tính chiến lược thì Việt Nam cũng kế thừa được kinh nghiệm phát triển tên lửa của Bắc Triều Tiên, tất nhiên là từ rất lâu rồi, bây giờ thì không có chuyện đó bởi vì có liên quan đến cấm vận. Nhưng rõ ràng là sẽ có thể học hỏi, nhưng cái sự học hỏi đó nói chỉ mang tính cục bộ và hạn chế rất nhiều bởi vì về mặt thiết kế mô hình kinh tế chính trị, mô hình quản trị quốc gia thì Việt Nam và Bắc Triều Tiên hoàn toàn khác nhau.
RFI :Vũ khí hệ Nga chiếm khoảng 80% trong kho vũ khí Việt Nam. Năm 2023, Việt Nam không mua được linh kiện hoặc vũ khí từ Nga do Matxcơva bị cấm vận. Từ cuối năm ngoái, Bình Nhưỡng và Nga thắt chặt quan hệ, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng. Bắc Triều Tiên được cho là sản xuất vũ khí cho Nga và dường như được Nga chuyển giao công nghệ. Liệu Bắc Triều Tiên, dù vẫn bị cấm vận, có trở thành một kênh trung gian cho Việt Nam tiếp cận công nghệ vũ khí của Nga ?
Nguyễn Thế Phương :Điều này ở thời điểm hiện tại là khó có khả năng xảy ra bởi vì liên quan rất nhiều đến việc cả Nga và Bắc Triều Tiên bị cấm vận. Do đó việc Việt Nam có một mối quan hệ nào đó với Bắc Triều Tiên và với Nga có liên quan đến vũ khí là vấn đề hết sức nhạy cảm và sẽ tác động đến uy tín quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là ở Liên Hiệp Quốc. Cho nên khả năng Việt Nam tiếp cận vũ khí hay linh kiện vũ khí của Nga thông qua Bắc Triều Tiên là khá thấp. Đó là lý do thứ nhất, liên quan đến uy tín quốc tế, tới cấm vận.
Lý do thứ hai là không nhất thiết phải thông qua Nga mới có các linh kiện của Nga. Bởi vì hiện nay, Việt Nam có mối quan hệ an ninh quốc phòng khá tốt đẹp với những quốc gia cũng sử dụng linh kiện của Nga và Việt Nam hoàn toàn có thể mua lại những linh kiện thông qua các quốc gia đó. Ví dụ Ấn Độ là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp quốc phòng cũng như quân đội sử dụng vũ khí của cả hai hệ : Nga và Liên Xô trước đây và của cả phương Tây và Mỹ. Do đó, với quy mô quân đội hơn 1 triệu người thì vũ khí cũng như phụ tùng linh kiện vũ khí của Nga trong kho của quân đội Ấn Độ không phải là thiếu. Và ngoài Ấn Độ còn có các quốc gia Đông Âu.
Tiếp theo, Nga cũng đã chuyển giao giấy phép một số loại kinh kiện phụ tùng cho Ấn Độ, có nghĩa là cùng một loại linh kiện phụ tùng đó, thay vì Nga sản xuất thì Ấn Độ sản xuất. Việt Nam hoàn toàn có thể mua trực tiếp từ Ấn Độ, chuyển giao giấy phép sản xuất vũ khí hoặc phụ tùng cho các nước khác. Không chỉ có Ấn Độ mà còn có Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước mà nền công nghiệp quốc phòng phụ thuộc rất lớn vào năng lực quốc phòng của Nga.
Cho nên, xét tới những khả năng như vậy, có thể thấy việc Việt Nam thông qua Bắc Triều Tiên để tiếp cận vũ khí hoặc linh kiện sản xuất từ Nga tạo ra rủi ro nhiều hơn lợi ích. Rủi ro lớn nhất vẫn là rủi ro bị ảnh hưởng bởi cấm vận, bị ảnh hưởng về việc uy tín quốc tế của Việt Nam bị giảm sút. Nhưng quan trọng hơn nữa là cấm vận. Vì rủi ro khá là cao nên khả năng đó khá là thấp. Mặc dù đã có thảo luận nội bộ về vấn đề này nhưng khả năng đó khó xảy ra và hầu như không xảy ra ở thời điểm hiện tại. Và khả năng làm việc trực tiếp với Nga đã nổi lên từ cuối năm ngoái (2023). Việt Nam không cần thông qua Bắc Triều Tiên để là việc với Nga mà Việt Nam sẽ làm việc trực tiếp với Nga.
RFI : Trong thời gian gần đây, Bình Nhưỡng đạt nhiều tiến bộ hơn về công nghệ tên lửa đạn đạo, như chúng ta thấy qua những vụ thử gần đây và được cho là nhờ Nga giúp đỡ. Liệu thông qua Bắc Triều Tiên, Việt Nam có thể tiếp cận được những công nghệ tiên tiến đó không, theo mô hình trao đổi hợp tác đôi bên cùng có lợi ?
Nguyễn Thế Phương :Về mặt lý thuyết, đi đường vòng như vậy là có thể nhưng về mặt thực tế thì tốn cả thời gian, công sức và tiền bạc. Nhanh nhất, hiệu quả nhất, đỡ tốn thời gian nhất vẫn là Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga bởi vì hai nước là đối tác chiến lược toàn diện, có mối quan hệ an ninh quốc phòng mật thiết và truyền thống. Hiện nay công nghệ mà Việt Nam quan tâm nhất của Nga là công nghệ hạt nhân, thì Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga, không cần thông qua ai. Nên xét về lợi ích giá trị mang lại và mất đi, quan điểm riêng của tôi vẫn là làm trực tiếp với Nga sẽ nhanh hơn và đỡ tốn hơn là đi vòng.
Thứ hai, quan hệ song phương hiện nay giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không được tốt như trước đây. Phải khẳng định như vậy ! Quan hệ chỉ ở mức ngoại giao, tạm gọi là « thân thiết » về mặt ý thức hệ, cũng như là việc Việt Nam làm trung gian trong một số vấn đề chính trị, ví dụ giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc hoặc là giữa Nhật Bản và Bắc Triều Tiên hoặc Mỹ và Bắc Triều Tiên. Còn về mặt thực chất, hầu như mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không tiến triển gì nhiều trong mấy thập niên trở lại đây. Cho nên khả năng thông qua bắc Triều Tiên để tiếp cận công nghệ, về mặt lý thuyết, là có, nhưng rất khó xảy ra. Với tình hình hiện tại, với mối quan hệ Việt-Triều, với mối quan hệ Việt-Nga hiện tại thì việc đó khó xảy ra.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh NguyễnThế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc.
Mon, 03 Jun 2024 - 176 - Được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường: Không đơn giản đối với Việt Nam
Mặc dù đã trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Hoa Kỳ, từ hơn hai thập niên qua, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách các quốc gia mà Hoa Kỳ xem là những nền kinh tế phi thị trường. Tổng cộng danh sách này hiện có 12 quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, Nga và một số quốc gia khác cũng thuộc Liên Xô cũ.
Hàng hóa nhập từ những nước bị xem là nền kinh tế phi thị trường vẫn bị Hoa Kỳ áp thuế “chống phá giá”. Trong thương mại quốc tế, bị xem là phá giá khi hàng xuất khẩu của một quốc gia cố tình được định giá thấp hơn giá trong nước, và như vậy là gây bất lợi cho các ngành công nghiệp của quốc gia nhập khẩu hàng. Thuế “chống phá giá”chủ yếu nhằm bù đắp cho sự chênh lệch giữa giá hàng được xuất khẩu và giá bình thường của hàng đó.
Trong thời gian gần đây, Hà Nội đã thúc giục chính quyền tổng thống Joe Biden nhanh chóng công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, bởi vì đối với họ, Việt Nam đã thực hiện đủ những cải cách kinh tế để xứng đáng được hưởng quy chế đó. Hơn nữa, nhân chuyến viếng thăm Hà Nội của tổng thống Biden tháng 9 năm ngoái, hai nước đã nâng quan hệ song phương lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”, tức là Việt Nam đã xem Hoa Kỳ ngang hàng với Trung Quốc và Nga. Đối với Hà Nội, việc Washington vẫn xem Việt Nam là “nền kinh tế phi thị trường” gây cản trở cho việc tăng cường quan hệ giữa hai nước, trong khi những nước lớn khác như Nhật Bản, Úc, Anh Quốc và Canada đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Vài ngày sau khi tổng thống Biden đặt chân đến Việt Nam, Hà Nội đã nộp đơn xin Hoa Kỳ cấp quy chế kinh tế thị trường và một tháng sau đó, bộ Thương Mại Mỹ bắt đầu tiến trình xem xét dỡ bỏ Việt Nam khỏi danh sách các quốc gia bị áp thuế phá giá. Theo quy định của phía Mỹ, bộ Thương Mại có tổng cộng 270 ngày, tức là đến tháng 7 năm nay, để hoàn tất việc xem xét và đưa ra kết luận.
Được xem là kinh tế thị trường sẽ mang lại những thay đổi nào cho kinh tế Việt Nam? Trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội ngày 21/05/2024, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho biết:
“Hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nếu như Việt Nam được Hoa Kỳ công nhận là kinh tế thị trường thì rất nhiều mặt hàng sẽ có thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất rất thấp và điều sẽ kích thích mối quan hệ kinh tế giữa hai nước và thúc đẩy luồng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, có lợi cho cả hai bên.
Nếu được công nhận là nền kinh tế thị trường và với việc đầu tư của các công ty Hoa Kỳ vào công nghiệp bán dẫn, thì điều này sẽ mang lại cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi trong việc phát triển xuất khẩu, cũng như đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.”
Như vậy là nếu thoát khỏi thuế chống bán phá giá, hàng hóa của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường Mỹ.
Ngày 08/05/2024, bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã tổ chức phiên điều trần trực tuyến về việc công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, trong đó họ đã nghe những lập luận của cả bên chống và bên ủng hộ. Quyết định công nhận Việt Nam là kinh tế thị trường cho tới nay vẫn gặp sự phản đối của các nhà sản xuất thép và các nhà nuôi nuôi tôm Mỹ, cũng như một số nghị sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ, tuy được các tập đoán ngành bán lẻ và các tập đoàn những ngành khác ủng hộ.
Theo hãng tin Reuters, trong cuộc điều trần hôm đó, chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Mỹ-ASEAN, ông Ted Osius, nguyên đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, tuyên bố: “Việt Nam đã là một nền kinh tế thị trường rồi, vì đã đáp ứng tiêu chuẩn chủ chốt đó là khả năng chuyển đổi tiền tệ”.
Nhưng Liên minh Tôm miền Nam gồm các ngư dân và nhà chế biến tôm Hoa Kỳ cho biết họ phản đối việc cấp quy chế kinh tế thị trường, vì theo họ, vẫn còn các rào cản về quyền sở hữu đất đai của Việt Nam, luật lao động của Việt Nam còn yếu kém và thuế đánh vào tôm ở Việt Nam thấp hơn, gây tổn hại cho các thành viên của Liên minh.
Việc nâng cấp quy chế của Việt Nam cũng gặp phải sự phản đối đáng kể tại Quốc Hội Hoa Kỳ, với 8 thượng nghị sĩ và 31 dân biểu Hạ viện đưa ra lập luận tương tự với bộ trưởng Thương Mại Gina Raimondo. Theo họ, việc cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam sẽ hỗ trợ các công ty nhà nước Trung Quốc đã đầu tư nhiều vào Việt Nam, bằng cách giúp họ lách thuế nhập của Mỹ dễ dàng hơn.
Roy Houseman, đại diện của liên minh các nhà sản xuất thép lớn của Mỹ, United Steelworkers Union (USW), nói thêm rằng thay đổi quy chế cho Việt Nam sẽ "làm xói mòn cơ sở sản xuất trong nước của chúng ta, làm suy yếu khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ... và củng cố vai trò của Việt Nam như một kênh trung chuyển hàng hóa Trung Quốc được buôn bán không công bằng."
Đối với chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, các tiêu chuẩn do Hoa Kỳ đặt ra để công nhận là kinh tế thị trường còn quá xa so với tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam:
“Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thì mối quan hệ đã phát triển tốt đẹp và giữa hai nước hiện nay đang có quan hệ hợp tác chiến lược. Riêng về kinh tế, Hoa Kỳ có những tiêu chuẩn về nền kinh tế thị trường, trong đó đòi hỏi phải có đồng tiền được chuyển đổi đầy đủ, tức là trong bất kỳ tình huống nào, trong nước và ngoài nước, đồng tiền đều có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ.
Một điều kiện nữa là giữa người sử dụng lao động và người lao động phải được tự do thỏa thuận tiền lương, rồi thì phải có công đoàn độc lập, v.v…
Đó là những tiêu chuẩn mà hiện nay còn xa so với những tiêu chuẩn mà Việt Nam đang áp dụng, do điều kiện phát triển cụ thể của Việt Nam. Vì vậy, tôi thấy đây là một cuộc điều tra, xem xét khó khăn.
Hoa Kỳ dự kiến đến tháng 7 sẽ có tuyên bố kết luận về điều này. Tôi hy vọng là việc xem xét này sẽ không gây cản trở cho mối quan hệ hợp tác kinh tế, vì hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam.”
Theo Reuters, trong cuộc điều trần hôm 08/05, các luật sư đại diện Việt Nam khẳng định rằng việc tăng lương ở Việt Nam là kết quả của thương lượng giữa người lao động với chủ công ty. Nhưng tổ chức bảo vệ nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch ( HRW ) cho biết Việt Nam vẫn không đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản về quyền lao động để có thể được xem là nền kinh tế thị trường. Theo HRW, thật sai lầm khi nói rằng công nhân Việt Nam có thể tự thành lập công đoàn, hoặc nói rằng tiền lương của họ là kết quả của thương lượng tự do.
Theo ông Lê Đăng Doanh, tiêu chuẩn liên quan đến công đoàn độc lập có lẽ sẽ là trở ngại lớn nhất cho việc Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường:
“Việt Nam chưa có trả lời về việc có thay đổi quy chế hiện nay hay không. Trong nước chưa thấy có sáng kiến hay đề nghị nào về việc xem một Luật Công đoàn, trong đó có công đoàn độc lập.
Vì vậy tôi nghĩ là giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cần tiếp tục có những trao đổi sâu sắc và đầy đủ để hai bên hiểu biết nhau đầy đủ hơn. Hiện nay Việt Nam quan niệm công đoàn là phải do đảng, cho nên hoạt động của công đoàn về nhiều mặt rất là năng động, nhưng đều dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cơ quan đảng. Ngay cả công đoàn ở các doanh nghiệp tư nhân cũng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp đó. Cho nên Việt Nam cũng yêu cầu thành lập các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài”.
Ngoài hai tiêu chuẩn về khả năng chuyển đổi tiền tệ và về lao động, quốc gia muốn được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường còn phải cho phép liên doanh hoặc hình thức đầu tư nước ngoài khác. Hoa Kỳ cũng sẽ xem xét chính phủ của nước đó có sở hữu hay kiểm soát các phương tiện sản xuất hay không, cũng như có kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, giá và quyết định sản lượng hay không. Một tiêu chuẩn khác có thể là nhân quyền ở Việt Nam.
Vấn đề là chính phủ Hoa Kỳ xem xét cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam trong bối cảnh đang diễn ra chiến dịch vận động tranh cử cho cuộc bầu cử tổng thống tháng 11. Theo hãng tin Reuters, tổng thống Joe Biden đang muốn thu hút lá phiếu từ giới lao động, nhất là những công nhân ngành thép ở Pennsylvania, được xem là một bang dao động ( swing state ) có vai trò quan trọng đối với kết quả bầu cử.
Ông Biden gần đây đã phản đối kế hoạch của hãng thép Nhật Bản Nippon Steel mua lại hãng US Steel ở Pittsburgh, đồng thời kêu gọi phải đánh thuế cao hơn với thép nhập khẩu từ Trung Quốc.
Ấy là chưa kế đến khả năng cựu tổng thống Donald Trump trở lại Nhà Trắng sau cuộc bầu cử tháng 11 và điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa Hoa Kỳ với Việt Nam, theo chuyên gia Lê Đăng Doanh:
“Theo những thông tin mà tôi được biết, nếu ông Trump thắng cử, ông sẽ lập lại những yêu cầu, những lời hứa của ông và điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Tức là có thể ông Trump sẽ đánh thuế và sẽ xem xét lại những cam kết mà Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được trong thời tổng thống Biden.”
Mon, 27 May 2024 - 175 - Tác động của kênh đào Funan Techo: Tranh cãi trong giới chuyên gia Việt Nam
Kể từ khi chính phủ Cam Bốt công bố kế hoạch xây dựng kênh đào Funan Techo ( Phù Nam Techo ), chính phủ Việt Nam và một số chuyên gia đã bày tỏ quan ngại về tác động của dự án này đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, giới chuyên gia Việt Nam lại không đồng nhất ý kiến về tác động thật sự của kênh đào Funan Techo, nhất là đối với lưu lượng của các con sông tại vùng đồng bằng này.
Về mặt giao thông, với kênh đào này, dự án 1,7 tỷ đôla do Trung Quốc tài trợ, hàng hóa từ thủ đô Phnom Penh sẽ được vận chuyển thẳng đến các cảng trên Vịnh Thái Lan, không đi vòng qua Việt Nam nữa.
Theo thông tin từ phía Cam Bốt, kênh đào Funan Techo sẽ có chiều dài khoảng 180 km, đi qua 4 tỉnh ( Kandal, Takeo, Kampot và Kep) với tổng dân số sinh sống hai bên ven sông là 1,6 triệu người. Dự án cũng sẽ xây dựng 3 âu thuyền để duy trì mực nước, 11 cây cầu và 208 km đường mới kèm theo.
Theo thiết kế, kênh Funan Techo sẽ có chiều rộng 100m ở thượng nguồn, 80m ở hạ lưu và có độ sâu 5,4m. Dự kiến kênh đào sẽ được khởi công vào khoảng cuối năm 2024 và hoàn thành vào năm 2027, với tổng lượng hàng hóa lưu thông qua tuyến đường thủy mới này được ước lượng là 7 triệu tấn/năm.
Chính phủ Hà Nội đã chính thức lên tiếng bày tỏ quan ngại về tác động của kênh đào Funan Techo đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về ý kiến của các chuyên gia, theo báo chí trong nước, tại hội nghị tham vấn về Dự án kênh đào Funan Techo, do Ủy ban sông Mekong Việt Nam (VNMC) tổ chức ngày 23/4 ở Cần Thơ, tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Giảng viên Cao cấp của Khoa Môi trường, Trường Đại học Cần Thơ, lưu ý là báo cáo của Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt (CNMC) chỉ đề cập đến chức năng của kênh Funan Techo như một thủy lộ hay kênh giao thông thủy, mà lại không đề cập đến các chức năng khác, cụ thể không nói rõ là kênh có phục vụ tưới tiêu, sản xuất nông nghiệp, lấy nước sinh hoạt hay không và mức độ khai thác thế nào.
Theo ông Lê Anh Tuấn, kênh Funan Techo sẽ liên quan đến dòng chính sông Mekong và có tác động đến đồng bằng sông Cửu Long, lượng nước của sông Mekong về đồng bằng sông Cửu Long có thể giảm nghiêm trọng hơn những năm khô hạn. Bên cạnh đó, kênh đào Funan Techo được cho là sẽ có tác động về hệ sinh thái, môi trường và tính đa dạng sinh học của vùng này.
Cũng tại hội nghị nói trên, ông Phạm Hồ Quốc Tuấn, Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, nhắc lại, từ Phnom Penh, dòng chảy sông Mê Kông có phân lưu sông Bassac ( Hậu Giang, theo tên Việt Nam ), phân chia dòng chảy từ thượng nguồn về hạ lưu. Khi kênh đào Funan Techo đi vào hoạt động, dòng chảy sông Mekong sẽ phân chia thêm một lượng nước về sông Bassac, làm giảm dòng chảy sông Mekong về hạ lưu (Tiền Giang ), dẫn đến khả năng là nguy cơ thiếu hụt lượng nước trong mùa khô ngày càng nghiêm trọng hơn.
Tuy nhiên, một số chuyên gia khác như giáo sư Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng danh dự Trường Đại học Nam Cần Thơ, thì không tin vào kịch bản nói trên:
“Theo tôi và một số anh em trong ngành thủy lợi, mình không nên lo lắng nhiều quá, tại vì sông Mekong chảy từ Tây Tạng qua Vân Nam ( Trung Quốc ), Lào, Thái Lan, Cam Bốt, rồi mới đổ vào Việt Nam. Nếu có dịp đi dọc theo sông Mekong ta sẽ thấy dòng sông này, sau Lào, khi xuống tới đoạn Cam Bốt qua Việt Nam, có những khúc không đi tàu được, vì nhiều đoạn chỉ là ghềnh thác hoặc đá sỏi. Cho nên, trong thực tế, những nước phía trên Việt Nam không tận hưởng được nước như tại đồng bằng sông Cửu Long của mình, vì mặt đất ruộng của họ cách mặt nước của dòng sông khá là xa, có nơi tới mười mấy, hai chục mét, thành ra không cách chi mà lấy nước để mà tưới được.
Mực nước sông Mekong khi vào Việt Nam thì cách mặt đất ruộng chỉ khoảng 1 mét, cho nên mình hưởng nước này gần như trọn vẹn hơn các nước phía trên. Sông Cửu Long khi xuống tới Việt Nam thì dòng Tiền Giang trở nên rất là mạnh, trong khi Hậu Giang chảy rất yếu. Do đó, thiên nhiên cũng tạo ra sông Vàm Nao, tách ra từ Tiền Giang, đổ xuống dưới,chảy vào Hậu Giang. Cụ thể là trong mùa mưa, mùa lụt, lưu lượng của nước từ Tiền Giang tràn qua phía Hậu Giang, tạo thành sông Vàm Nao.
Trước năm 1974, lưu lượng của sông Cửu Long đo tại Kratie bên Cam Bốt trong mùa nước lớn là khoảng 40.000 m3/giây, nhưng tới mùa nắng, mùa khô thì còn tối đa là 2.000 m3/giây. Nhưng sau năm 1974 cho tới những năm gần đây, lưu lượng mùa khô tăng lên thành 2.300 m3/giây, chứng tỏ là nó có nhiều nước hơn trong lúc này. Tuy nhiên, khi vào đến Phnom Penh, khi Mekong chảy thành hai đoạn, thì kênh đào Funan Techo sẽ lấy nước từ Hậu Giang, tức là sông yếu hơn của Mekong. Thành ra, những người lo lắng, bi quan thì nói là nó sẽ lấy nước đồng bằng sông Cửu Long ít nhất là từ 50% đến 70%, thì đồng bằng sông Cửu Long sẽ khô hạn hết. Tôi và một số chuyên gia về thủy lợi thì không tin điều đó, tại vì sông Tiền Giang từ xưa đến nay luôn luôn là rất mạnh. Bây giờ dù phía Cam Bốt có lấy nước đi nữa, thì nó cũng còn ở phía trên, còn bên mình thì nước chảy xuống những cao độ thấp hơn bên đó, cho nên mình vẫn có thể hưởng được dòng Tiền Giang, rồi từ Tiền Giang qua sông Vàm Nao để đổ vào hệ thống Hậu Giang.”
Thật ra thì một số chuyên gia lo lắng là vì đối với họ, báo cáo của Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt về kênh đào Funan Techo “chưa phân tích đầy đủ, chưa thể hiện hết các mặt của sự tác động”. Vì thế, họ yêu cầu phía Cam Bốt chia sẻ minh bạch các thông tin chi tiết về dự án bao gồm cả báo cáo khả thi và kết quả đánh giá tác động môi trường của dự án. Họ cũng đề nghị Ủy hội sông Mekong quốc tế cần hỗ trợ các quốc gia tiến hành một nghiên cứu chung về tác động xuyên biên giới của dự án tới tất cả các lĩnh vực và đề xuất biện pháp giảm thiểu tác động.
Riêng đối với giáo sư Võ Tòng Xuân, phía Cam Bốt cần phải cung cấp thêm một số thông tin để có thể đánh giá tác động của kênh đào Funan Techo đối với lưu lượng các con sông ở đồng bằng sông Cửu Long:
“Thật sự lưu lượng nước lấy từ sông Hậu Giang bên phía Cam Bốt để cung cấp cho kênh đào này không quá nhiều như là nhiều người đang lo. Trái lại, nó sẽ lấy vừa phải, bởi vì bản thân dòng nước này đã yếu rồi. Bây giờ mình sẽ hỏi thêm là họ có đào thêm một con kênh mới để nối Tiền Giang với Hậu Giang để đưa xuống con kênh này hay không, thì mình sẽ biết rõ ràng hơn, chắc chắn hơn là họ lấy bao nhiêu nước. Đến chừng đó mình mới dám kết luận là kênh Funan Techo có làm hại cho lượng nước xuống đồng bằng sông Cửu Long của mình hay không? Bây giờ mình chỉ mới nói theo cảm tính thôi, chứ còn số liệu cụ thể thì chưa có"
Về phía chính phủ Việt Nam, trong cuộc họp báo ngày 05/05/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Phạm Thu Hằng đã ra lời kêu gọi với phía Cam Bốt:
“Chúng tôi mong rằng Cam Bốt tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và các nước trong Ủy hội sông Mekong chia sẻ thông tin, đánh giá đầy đủ tác động của dự án này đối với nguồn nước, tài nguyên nước và môi trường sinh thái của khu vực tiểu vùng sông Mekong" .
Đáp lại những quan ngại nói trên, chính phủ của thủ tướng Hun Manet vẫn không thay đổi lập trường, đó là họ sẽ tiến hành xây dựng kênh đào Funan Techo mà không cung cấp thông tin chi tiết về dự án này cho phía Việt Nam. Theo nhật báo Khmer Times, trong một cuộc họp báo với các phóng viên trong nước vào ngày 07/05, phó thủ tướng Sun Chanthol khẳng định dự án kênh đào"chỉ cần 5 mét khối mỗi giây (m3/s), tương đương 0,053% lưu lượng sông Mekong",tức là sẽ không gây tình trạng thất thoát nước. Ông còn khẳng định khi đi vào hoạt động, kênh đào "sẽ góp phần giảm nhẹ lũ lụt ở miền Nam Việt Nam".
Ông Chanthol cho biết đã tham khảo Hiệp định Mekong năm 1995, quy định rằng các hoạt động ảnh hưởng đến các nhánh của sông Mekong, bao gồm cả Tonle Sap, phải được “thông báo” cho Ủy ban Hỗn hợp. Cam Bốt đã thông báo cho ủy ban này vào ngày 08/08/2023. Nhưng phó thủ tướng Chanthol nhấn mạnh : “Cam Bốt không bắt buộc phải tham vấn trước hoặc phải có thỏa thuận cụ thể từ các nước thành viên Ủy hội sông Mekong ( MRC)”.
Phó thủ tướng Cam Bốt ngược lại đã chỉ trích Hà Nội khi nêu lên dự án cải tạo kênh Chợ Gạo ở miền Nam Việt Nam và khẳng định là phía Việt Nam "thậm chí còn không thông báo về dự án này cho Ủy hội sông Mekong”.
Cũng theo Khmer Times, cựu thủ tướng Hun Sen, hiện là chủ tịch Thượng Viện Cam Bốt, hôm 16/05 thậm chí còn kêu gọi chính phủ đừng chờ đợi nữa mà hãy tiến hành xây kênh đào Funan Techo càng sớm càng tốt để chấm dứt những tranh luận chung quanh dự án này.
Mon, 20 May 2024
Podcasts ähnlich wie Tạp chí Việt Nam
- Global News Podcast BBC World Service
- El Partidazo de COPE COPE
- Herrera en COPE COPE
- The Dan Bongino Show Cumulus Podcast Network | Dan Bongino
- Es la Mañana de Federico esRadio
- La Noche de Dieter esRadio
- Hondelatte Raconte - Christophe Hondelatte Europe 1
- Affaires sensibles France Inter
- La rosa de los vientos OndaCero
- Más de uno OndaCero
- La Zanzara Radio 24
- Espacio en blanco Radio Nacional
- Les Grosses Têtes RTL
- L'Heure Du Crime RTL
- El Larguero SER Podcast
- Nadie Sabe Nada SER Podcast
- SER Historia SER Podcast
- Todo Concostrina SER Podcast
- 安住紳一郎の日曜天国 TBS RADIO
- TED Talks Daily TED
- The Tucker Carlson Show Tucker Carlson Network
- 辛坊治郎 ズーム そこまで言うか! ニッポン放送
- 飯田浩司のOK! Cozy up! Podcast ニッポン放送
- 武田鉄矢・今朝の三枚おろし 文化放送PodcastQR