Nach Genre filtern
- 198 - Chiến tranh thương mại với Mỹ : Những bước chuẩn bị của châu Á
Những nền kinh tế châu Á, trong đó có Việt Nam, từng hưởng lợi trong trận thương chiến Mỹ-Trung dưới chính quyền Trump 2016-2020 sẽ « chật vật » hơn nhiều trong 4 năm tới vì chính sách bảo hộ « toàn diện » của Washington. Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan có nhiều cơ sở tại Hoa Lục trông thấy trước « một tai họa ». Tăng trưởng của châu Á lệ thuộc vào xuất khẩu, mỗi nước trong khu vực đang gấp rút đi tìm tìm chìa khóa để đối thoại với chính quyền Trump.
Chưa đầy một tuần lễ từ khi Donald Trump đắc cử tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ hai, tất cả các lãnh đạo Đông Nam Á cũng như trên toàn thế giới đều vội vã chúc mừng ông. Gần đây nhất tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm hôm 12/11/2024 đã có cuộc điện đàm với tổng thống tân cử Donald Trump. Từ thủ tướng Malaysia đến đồng cấp Cam Bốt trong điện chúc mừng ông Trump cùng « tin tưởng vào vai trò thiết yếu của Hoa Kỳ trong việc duy trì ổn định, hòa bình và thịnh vượng » cho Đông Nam Á.
Chỉ 48 giờ sau khi ông Trump tái đắc cử, cả Philippines lẫn Đài Loan cùng cho biết ý định « trang bị thêm vũ khí của Mỹ ». Theo đánh giá của báo tài chính Anh, Financial Times, Manila và Đài Bắc vừa xem đây là « những lá bùa hộ mệnh » để tăng cường khả năng phòng thủ trước những tham vọng của Trung Quốc vừa biết ý ông Trump thích khoe thành tích « giúp các công ty vũ khí của Mỹ bán được hàng ». Đây có thể là cách để thoát khỏi các gọng kềm từ chính sách « bảo hộ » của chính quyền Washington trong tương lai.
Đông Nam Á trong thế « bất an »
Trong nhiệm kỳ đầu 2016-2020 nhà tỷ phú New York Donald Trump đã sử dụng lá bài bảo hộ với tất cả các đối tác thương mại của Mỹ. Lần này châu Á, từ những quốc gia tiên tiến nhất như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan, đến khối Đông Nam Á đã sẵn sàng hay chưa cho một cuộc chiến thương mại thứ nhì xuất phát từ Mỹ ? Cuộc chiến này được cho là sẽ diễn ra với « cường độ mạnh hơn gấp bội » so với 5-6 năm trở về trước.
Hãng tin Đức Deutsche Welle trích lời nhà nghiên cứu Việt Nam Lê Hồng Hiệp, viện nghiên cứu Đông Nam Á Singapore Yusof Ishak, cho rằng Đông Nam Á đã « chuẩn bị tốt hơn » để đối đầu với một cuộc chiến thương mại thứ nhì, khối này sẽ « nhanh chóng thích nghi với thực tế và sẽ bảo vệ quyền lợi của họ ». Vẫn theo Deutsche Welle « Việt Nam đặc biệt lo ngại do là nguồn xuất khẩu quan trọng nhất của Đông Nam Á sang Hoa Kỳ »,trước cả Singapore. Năm 2023 « thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ lên tới 96 tỷ đô la ».
Cùng với Ấn Độ, Mêhicô… Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới « hưởng lợi nhiều nhất » từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung nhưng không là nền kinh tế Đông Nam Á duy nhất trong thế « bất an » trước viễn cảnh Washington từ tháng 1/2025 mở một cuộc chiến thương mại với toàn thế giới.
Theo thẩm định của cơ quan tư vấn Oxford Economics kim ngạch xuất khẩu của cả khu vực châu Á, không kể Trung Quốc sẽ giảm 3% nếu ông Trump dựng lại các hàng rào thuế quan như từng cam kết trong thời kỳ vận động tranh cử, bởi vì ngoại trừ Lào, « Mỹ luôn là một trong những khách hàng quan trọng nhất » với tất cả các nền kinh tế còn lại.
Vũ khí nào để Bắc Kinh đương đầu với trận chiến thương mại Trump 2.0 ?
Tuy nhiên Trung Quốc mới là mục đích chính mà nhóm cố vấn của tổng thống Mỹ tương lai đang nhắm tới. Bằng chứng là Donald Trump mời hai nhân vật « diều hâu và có lập trường cứng rắn với Bắc Kinh »là các thượng nghị sĩ Marco Rubio và dân biểu Mike Waltz tham gia nội các ở hai vị trí quan trọng : ngoại trưởng và cố vấn an ninh quốc gia. Kèm theo đó là chủ trương « đánh thuế đến 60% vào hàng Trung Quốc bán sang Hoa Kỳ ».
Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Đài Loan có nhiều cơ sở sản xuất tại Hoa Lục trong thế bị động. Báo Japan Times nhắc lại « hiện có hơn 20.000 doanh nghiệp Nhật Bản cỡ vừa và nhỏ đang hiện diện tại Trung Quốc. Họ ý thức được là sẽ gặp khó khăn nếu muốn xuất khẩu sang Mỹ ».Chỉ riêng trong ngành ô tô, việc ông Trump báo trước một cuộc chiến thương mại với cả Mêhicô và Canada là « cú sét đánh ngang tai », với các hãng xe Nhật do số này đã mở nhà máy tại Mêhicô, sát cạnh cửa ngõ Hoa Kỳ. Chỉ riêng năm ngoái Nhật xuất khẩu 1,5 triệu chiếc xe sang Mỹ và đây là điểm đến lớn gấp hơn cả tổng số xe bán ra trên thị trường xứ hoa anh đào.
Các chuyên gia được hãng tin Anh Reuters trích dẫn đồng loạt đưa ra nhiều lý do cho thấy ông Tập Cận Bình không ở trong « thế mạnh ». Thứ nhất tăng trưởng của Trung Quốc đang sa sút. Thứ hai là dưới nhiệm kỳ Trump lần trước, Bắc Kinh đã « bội ước » khi cam kết mua thêm 200 tỷ đô la hàng của Mỹ để thu hẹp thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc. Lần này những hứa hẹn của Trung Quốc khó có tính thuyết phục một ông Trump có tính « thù dai ».
Điểm thứ ba là Bắc Kinh không có phương tiện để « ăn miếng trả miếng » Washington : Tập Cận Bình không thể cũng áp dụng các hàng rào thuế quan đánh vào hàng Mỹ khi mà tiêu thụ nội địa Trung Quốc đã yếu kém trong lúc Trung Quốc cần xuất khẩu sang Âu, Mỹ để bảo đảm tăng trưởng nội địa. Hơn nữa tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ đã vượt ngưỡng 500 tỷ đô la, lớn gấp 3 so với nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Theo định của ngân hàng UBS, nếu ông Trump áp thuế 60 % đánh vào xuất khẩu của Trung Quốc, GDP của nền kinh tế châu Á này « trong 12 tháng sắp tới sẽ giảm mất phân nửa », tức là rơi xuống còn khoảng 2,5 % một năm.
Trên đài phát thanh Pháp France Inter, chuyên gia kinh tế Pháp, Antoine Bouet, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu về Triển Vọng và Thông Tin Quốc Tế-CEPII chờ đợi, ông Trump ở nhiệm kỳ 2 sẽ mạnh tay hơn rất nhiều trong cuộc chiến thương mại, bất luận điều ấy gây thiệt hại cho chính các nhà sản xuất của Mỹ
« Có nguy cơ là cuộc thương chiến sẽ nhanh chóng mở màn, căn cứ vào những tuyên bố của tổng thống tân cử Hoa Kỳ. Trump chủ trương đánh thuế trên toàn bộ các mặt hàng thâm nhập thị trường của Mỹ và đặc biệt là đánh thuế thuế đến 60 % và thậm chí là 100 % nhắm vào hàng từ Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Theo những thẩm định của trung tâm CEPII, điều đó có nghĩa là Washington trong tương lai sẽ tăng thuế hải quan đánh vào một khối lượng hàng trị giá 3.100 tỷ đô la và Mỹ. Để so sánh trong giai đoạn 2018-2019 chính Trump khi đó cũng đã dựng lại các hàng rào thuế quan nhắm vào 310 tỷ đô la kim ngạch nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Thế rồi dưới thời tổng thống Biden, đầu năm nay cũng đã sử dụng đòn thuế hải quan này nhưng chỉ nhắm vào 18 tỷ đô la hàng được vào thị trường Mỹ. Nói cách khách, chính sách bảo hộ của Biden chỉ là một giọt nước trong biển cả ».
Giám đốc trung tâm CEPII giải thích thêm :
« Trước kia một món hàng được sản xuất chỉ tại một nơi, rồi được xuất khẩu sang một quốc gia khác. Thành thử tăng thuế hải quan là để bảo vệ các nhà sản xuất nội địa và đổi lại thì người tiêu dùng chịu trả giá đắt hơn. Nhưng trong thời buổi này, để có được một thành phẩm, các hãng xưởng nhập khẩu nhiều phụ tùng từ nước ngoài. Thí dụ như hãng máy bay Boeing của Mỹ cần nhập phụ tùng của nhiều nước, đặc biệt là của Pháp. Vậy thì đánh thuế nhập khẩu 10 % vào các phụ tùng này bất lợi cho chính Boeing và sẽ tác hại đến khả năng cạnh tranh của chính các tập đoàn Mỹ ».
Về mặt chính trị, chủ trương tăng thuế hải quan vừa dễ hiểu vừa có sức thuyết phục lớn trong cuộc vận động tranh cử. Trump ở nhiệm kỳ tổng thống trước đã chứng minh ông là một chính khách « dám nói và dám làm » song theo quan điểm của Antoine Bouet việc tổng thống tân cử có ý định giao phó bộ Tài Chính cho một trong hai cố vấn kinh tế thân cận là John Paulson hay Scott Bessent (cả hai cùng là các nhà đầu tư và sáng lập viên các quỹ đầu cơ) cho thấy, Washington có vẻ muốn dùng đòn thuế quan để mặc cả với các đối tác của Hoa Kỳ. Antoine Bouet trung tâm CEPII :
« Có khả năng Donald Trump không thi hành các biện pháp đã loan báo nhưng sử dụng lá bài thuế hải quan này như một công cụ để đàm phán, để bắt các đối tác của Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Trước mắt được biết là hai nhân vật đang được ban lãnh đạo của tổng thống tân cử liên lạc để mời tham gia nội các ở cương vị bộ trưởng Tài Chính Mỹ. Đó là các ông Scott Bessent và John Paulson. Bessent là sáng lập viên quỹ đầu tư Key Square. Còn Paulson điều hành một quỹ đầu tư khác tại New York. Cả hai nhà đầu tư này cùng chủ trương khai thác các hàng rào thuế quan như các công cụ để gây sức ép với các đối tác của Mỹ ».
Với Trump ở Nhà Trắng, nên là bạn hay là thù của Mỹ ?
Về phần mình giáo sư Thomas Porcher, trường quản trị kinh doanh Paris School of Business nhắc lại Mỹ có truyền thống bảo hộ lâu đời, Donald Trump không vị tổng thống đầu tiên đi theo khuynh hướng đó. Trên tờ giấy bạc 10 đô la của Mỹ là bức chân dung vị bộ trưởng Tài Chính đầu tiên Alexander Hamilton với chủ trương bảo vệ nền công nghiệp còn non trẻ của nước Mỹ. Còn trên tờ giấy bạc 1 đô la là hình ảnh của George Washington, người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức tổng thống trong một bộ y phục được sản xuất 100 % tại Mỹ. Có chăng là Donald Trump chỉ áp dụng chính sách bảo hộ một cách « thô bạo » hơn các đời tổng thống tiền nhiệm ở Hoa Kỳ từ 3 thập niên qua :
« Nếu tăng thuế hải quan đánh vào một mặt hàng không thể thay thế-tức là hàng không sản xuất ở Mỹ, điều đó có nghĩa là người tiêu dùng Mỹ sẽ phải gánh chịu khoản phí phụ trội đó, tức là lạm phát ở Hoa Kỳ sẽ bị đội lên thêm. Đối với những sản phẩm mà cũng được sản xuất tại Hoa Kỳ thì giá thành ở Mỹ cũng sẽ cao hơn so với ở các nước có nhân công rẻ, ở những quốc gia kém phát triển ít chú trọng đến các chuẩn mực về môi trường và xã hội. Trên thực tế, nhìn vào thương mại toàn cầu, cuộc chiến mậu dịch đã có từ 30 năm nay trên cơ sở các cuộc đối đầu về những chuẩn mực về xã hội, thuế khóa, môi trường ».
Tue, 12 Nov 2024 - 197 - Bảo hộ mậu dịch : Trump và Harris "khác lọ cùng một nước"
Có nguy cơ nhiều cuộc xung đột thương mại nổ ra trên thế giới. Vào lúc 240 triệu cử tri Hoa Kỳ bầu lại tổng thống cho một nhiệm kỳ 4 năm, điều chắc chắn duy nhất là thắng lợi sau cuộc bỏ phiếu ngày 05/11/2024 thuộc về bên đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ đi chăng nữa thì nước Mỹ vẫn duy trì xu hướng bảo hộ mậu dịch. Dưới hình thức này hay hình thức khác, chủ nhân Nhà Trắng trong tương lai cũng sẽ tập trung các đòn thương mại vào Trung Quốc.
2024 sắp khép lại với cuộc bầu cử được coi là quan trọng nhất trên thế giới đang diễn ra tại Hoa Kỳ. Không một trung tâm dự báo nào dám đoán trước kết quả, nhưng giới phân tích đồng loạt cho rằng « những bất ổn về thương mại toàn cầu có khuynh hướng gia tăng sau cuộc bầu cử ngày 05/11/2024 ». Lý do, ứng cử viên bên đảng Cộng Hòa, Donald khai thác tối đa chiêu bài « tăng thuế hải quan để giữ công việc làm trên đất Mỹ, cho người Mỹ ». Ở góc đài bên kia, Kamala Harris đại diện cho đảng Dân Chủ, đã tham gia cuộc đua vào Nhà Trắng muộn màn, chỉ khi tổng thống Biden tuyên bố bỏ cuộc. Nhưng đương kim phó tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris được cho là sẽ « tiếp tục chính sách » của ông Biden trong khá nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế và thương mại. Do vậy không ít các nhà nghiên cứu vẫn so sánh cương lĩnh hành động của Trump với Biden/Harris.
Trung Quốc và bảo hộ, mẫu số chung của Hoa Kỳ
Một tuần trước bầu cử tổng thống Mỹ, Laurence Nardon, chủ nhiệm khoa nghiên cứu về Hoa Kỳ tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp - IFRI giải thích hai ứng cử viên Kamala Harris và Donald Trump như hai thái cực trên rất nhiều chủ đề liên quan đến xã hội của nước Mỹ, nhưng « Trung Quốc, thương mại, kinh tế » là những ngoại lệ và cả hai cùng chủ trương chấm dứt chính sách tự do mậu dịch.
« Về phía Donald Trump, chính sách kinh tế tập trung vào việc ông tiếp tục khai thác giọng điệu bài Trung Quốc, chống đối các hiệp định tự do mậu dịch để mang các cơ xưởng trở lại Hoa Kỳ. Về điểm này có một sự tiếp nối giữa hai bên Dân Chủ và Cộng Hòa. Đôi bên cùng muốn khép lại thời kỳ mà chính sách tự do mậu dịch và học thuyết tân tự do lên ngôi dưới, chu kỳ đó đã kéo dài từ thời tổng thống Ronald Reagan cho đến tận chính quyền Barack Obama (…)
Có nguy cơ chiến tranh thương mại sẽ lại bùng lên. Donald Trump tuyên bố ông sẽ đánh thuế 200 % vào hàng nhập từ Trung Quốc và Trump hoàn toàn có thể làm những gì ông nói như kinh nghiệm đã cho thấy hồi 2018. Tuy nhiên, đừng quên rằng cả bên đảng Dân Chủ và Cộng Hòa đều chống đối chính sách tự do mậu dịch. Donald Trump thì xoáy vào các biện pháp áp thuế. Về phía bà Kamala Harris, ứng viên đảng Dân Chủ sẽ tiếp tục áp dụng phương pháp của Joe Biden có nghĩa là nếu đắc cử chính quyền Harris sẽ ban hành các biện pháp hạn chế xuất khẩu công nghệ cao của Mỹ và đồng minh sang Trung Quốc ».
Trump muốn đánh thuế « toàn thế giới »
Trong các cuộc vận động tranh cử, Donald Trump thường xuyên dọa đánh thuế vào hàng nhập khẩu vào Mỹ nhưng các con số ông đưa ra thay đổi cùng với thời gian. Chuyên gia Laurence Nardon vừa nói đến 200 % đánh vào hàng Trung Quốc, nhưng chương trình vận động của bên đảng Cộng Hòa năm nay nói nhiều đến mục tiêu « áp thuế 10 % với tất cả các mặt hàng thâm nhập thị trường Mỹ, riêng với hàng của Trung Quốc thì sẽ bị đánh thuế tối tiểu 60 % ».
Để kiếm phiếu của cử tri, chính sách bảo hộ của ông Trump dường như không chừa một ai. Ứng cử viên của bên đảng Cộng Hòa đã nhắm luôn cả từ Liên Hiệp Châu Âu - khối mà ông gọi là một « Trung Quốc thu nhỏ », đến các đồng minh Bắc Mỹ như Canada hay Mêhicô. Tại một cuộc vận động ở bang Bắc Carolina, ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa hứa với cử tri ông sẽ « đánh thuế 25 % tất cả hàng nhập khẩu từ Mêhicô » sát cạnh. Ở một bang swing-state khác là Georgia, Trump thậm chí cho rằng, dưới sự dẫn dắt của ông, nước Mỹ trong thế mạnh để « giành lại » những công việc làm đã thất thoát ra nước ngoài :
« Dưới sự điều hành của tôi, chúng ta sẽ cướp công việc làm của những nước khác. Tôi đề nghị chúng ta không chỉ ngăn chặn các doanh nghiệp dời cơ sở ra nước ngoài mà chúng ta còn tranh công việc của các nước khác. Có bao giờ quý vị nghe thấy điều này hay chưa ? Chúng ta sẽ giành lấy công việc làm của những nơi khác, mang về cho nước Mỹ, cho người Mỹ. (…) Chúng ta sẽ đánh thuế 100 % xe hơi sản xuất ở phía bên kia đường biên giới với Mêhicô và sẽ giải thích với Mêhicô rằng nếu muốn không bị đánh thuế hải quan, thì giải pháp duy nhất là mở nhà máy và sản xuất ngay trên lãnh thổ Hoa Kỳ, và các công dân Mỹ sẽ điều hành những nhà máy sản xuất đó. Các công xưởng sẽ phải được đặt ở đây, chứ không phải là ở Mêhicô dù chỉ cách đường biên giới một tấc đất ».
Biden/Harris còn quyết liệt hơn với Trung Quốc
Về phía đảng Dân Chủ sau gần 4 năm ở Nhà Trắng, chính quyền Biden/Harris không làm gì nhiều để dỡ bỏ các biện pháp bảo hộ của người tiền nhiệm Donald Trump. Chiến tranh thương mại ông Trump khởi động từ năm 2017 với Trung Quốc thậm chí có xu hướng « khốc liệt hơn » như phân tích của nhà địa chính trị François Heisbourg, cố vấn đặc biệt cho Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược - FRS của Pháp trên đài phát thanh France Inter (hôm 31/10/2024) :
« Đối với Hoa Kỳ, kẻ thù hiện nay trước hết là Trung Quốc vì đây là một đối thủ cạnh tranh (…) Cả hai ứng viên tổng thống Mỹ có chung một tầm nhìn về Trung Quốc và cùng xem Trung Quốc là ưu tiên về mặt chiến lược của Hoa Kỳ. Đây là một sự thay đổi hết sức quan trọng trong chính sách của Washington. Thực ra, Joe Biden/Kamala Harris cứng rắn hơn Donald Trump rất nhiều với Trung Quốc và chính quyền Biden đã mạnh mẽ ủng hộ Đài Loan. Về thương mại, bất luận chính quyền sắp tới thuộc về phe nào, Mỹ cũng sẽ tập trung đánh vào Trung Quốc. Khác biệt duy nhất là nếu trở lại cầm quyền, ngoài Trung Quốc ra, Donald Trump sẽ không ngần ngại nhắm luôn cả tới châu Âu ».
Trong bài tham luận trên tạp chí chuyên về địa chính trị Le Grand Continent (24/04/2024), chuyên gia kinh tế Mỹ Erica York thuộc trung tâm nghiên cứu về chính sách thuế khóa Tax Foundation, trụ sở tại Washington, thậm chí cho rằng « phần lớn các biện pháp bảo hộ chính quyền Trump ban hành, đã được củng cố thêm dưới nhiệm kỳ của ông Biden ».
Chính sách bảo hộ của bên đảng Dân Chủ nguy hiểm hơn
Tuy nhiên có một khác biệt lớn về « phương pháp » giữa hai đời tổng thống bên Cộng Hòa và Dân Chủ : nếu như Donald Trump thiên về việc tăng thuế hải quan thì Joe Biden/Kamala Harris khéo léo hơn, viện cớ vì mục tiêu dung hòa lượng khí thải carbon, Hoa Kỳ cần chuyển đổi sang một mô hình công nghiệp xanh và sạch để vừa trợ giá cho các tập đoàn của Mỹ. Khẩu hiệu của Joe Biden là « Bye American » ngay từ khi ông bước vào Nhà Trắng. Đạo luật IRA chống lạm phát, đạo luật Chip Act năm 2022 cũng như chương trình phát triển cơ sở hạ tầng cho nước Mỹ hàng trăm tỷ đô la cũng chỉ theo đuổi một mục tiêu. Như phân tích của nguyên giám đốc Việt Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS của Pháp, bà Sylvie Matelly, trong một cuộc trả lời phỏng vấn vào tháng 2/2023 :
« Đối với một công ty, mở nhà máy tại châu Âu tốn kém hơn, và điều đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của họ. Đơn giản là vì cuối 2022 chẳng hạn, giá năng lượng ở Mỹ chỉ bằng 1/4 so với tại châu Âu. Trong bối cảnh đó, mùa hè 2022, tổng thống Joe Biden ban hành đạo luật IRA - gọi là để chống lạm phát, nhưng đồng thời để giảm khí thải carbon. Trong kế hoạch này Hoa Kỳ trợ cấp cho người Mỹ mua ô tô điện, với điều kiện là xe phải được lắp ráp trên lãnh thổ Mỹ. Ngoài ngành công nghiệp ô tô điện, chính quyền Biden còn hỗ trợ để phát triển công nghệ sinh học, trợ giúp cho cả mảng công nghệ bán dẫn và rộng hơn nữa là các lĩnh vực thuộc công nghệ xanh. Các biện pháp này đã mang lại nhiều hệ quả nghiêm trọng đối với Liên Âu mà điều hiển nhiên nhất là nhiều hãng tại châu Âu có kế hoạch di dời cơ sở sản xuất hay đầu tư mạnh hơn vào Hoa Kỳ. Tất cả những quyết định của Joe Biden đặt nền tảng cho Hoa Kỳ trong một cuộc đối đầu với Trung Quốc, cho phép nước Mỹ dẫn đầu cuộc đua công nghệ so với quốc gia châu Á này ».
Mỹ lo Trung Quốc thu hẹp khoảng cách về công nghệ
Nói cách khác, hai chính quyền Mỹ liên tiếp của bên đảng Cộng Hòa và Dân Chủ sở dĩ dồn hỏa lực vào Trung Quốc cũng chỉ vì ông khổng lồ châu Á này đang thu hẹp khoảng cách với Hoa Kỳ nhất là về mặt công nghệ cao, mà « tiến gần đến biên giới công nghệ cao », Bắc Kinh coi như đe dọa nền « nền tảng » của một nước Mỹ vẫn muốn thống trị toàn cầu. Do vậy giới phân tích cho rằng, Donald Trump ở nhiệm kỳ đầu chỉ mới chỉ « mở đường », khi đòi cấm cửa những tập đoàn công nghệ cao của Trung Quốc như Hoa Vi hay ZTE, Joe Biden còn mạnh tay hơn khi giới hạn các khoản giao dịch, đầu tư giữa các hãng của Mỹ và Trung Quốc. Washington, dưới nhiệm kỳ Biden, vận động và gây áp lực với các đồng minh của Mỹ như Hà Lan, Nhật Bản để phong tỏa các công ty high-tech của Trung Quốc.
Câu hỏi kế tiếp là vào lúc mà Hoa Kỳ đang tập trung đối phó với một đối thủ cạnh tranh (vừa là một sức mạnh kinh tế, và quân sự), liệu rằng chủ trương dùng chính sách bảo hộ để « trừng phạt », kể cả các đồng minh thân thiết nhất của Mỹ (như Canada hay Mêhicô ở Bắc Mỹ và châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc ở châu Á) có là thượng sách hay không ? Giáo sư kinh tế Mary Lovely, đại học Syracus, bang New York, trả lời :
« Để tăng cường khả năng cạnh tranh cho phép đương đầu với châu Á và nhất là Trung Quốc, thì Hoa Kỳ cần mở rộng tầm nhìn về chính sách phát triển kinh tế của toàn khối Bắc Mỹ, lôi kéo các nền kinh tế trong khu vực về phía Washington. Kinh nghiệm trong gia đoạn đại dịch vừa qua làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu cho thấy là Mỹ lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc trong khi đó, Canada có nhiều lá chủ bài trong tay, đặc biệt do đây là một quốc gia có nhiều tài nguyên, một nguồn sản xuất năng lượng và một nền công nghiệp vững chắc ».
Tue, 05 Nov 2024 - 196 - Nhật Bản trước thách thức địa chính trị Mỹ-Trung
Kết quả bầu cử Quốc Hội Nhật Bản ngày 28/10/2024 gây thêm hoang mang cho các nhà đầu tư vào lúc cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã đẩy Tokyo vào thế kẹt giữa một bên là đồng minh quân sự và bên kia nền kinh tế « gắn kết » chặt chẽ nhất với Nhật Bản. Bài toán càng thêm phức tạp khi mà Tokyo phải đối mặt với nhiều thách thức về mặt xã hội để vẫn là nền kinh tế thứ 3 toàn cầu, để vẫn tiên phong về công nghệ mới.
Sau 15 năm liên tục cầm quyền, đảng Dân Chủ Tự Do LDP cánh hữu với lập trường bảo thủ mất đa số ở Quốc Hội. Thủ tướng Shigeru Ishiba mới nhậm chức hôm 01/10/2024 có hai giải pháp : hoặc là thành lập một chính phủ liên minh với đa số rất sít sao và rất dễ bị bất tín nhiệm, hoặc phải từ chức. Ở góc đài bên kia, đảng Dân Chủ Lập Hiến CDP cánh trung tả về đầu với 148 dân biểu nhưng không hội đủ đa số tuyệt đối 233 ghế và cũng không dễ thành lập chính phủ liên minh thay thế nội các Ishiba.
Yếu tố chính trị này bất lợi cho kinh tế Nhật Bản vào lúc nền kinh tế lớn thứ nhì tại châu Á mới vừa phục hồi. Trả lời đài RFI tiếng Việt, giáo sư Brieuc Monfort, giảng dậy tại đại học Sophia -Tokyo và hiện là khách mời của Quỹ Nghiên Cứu Pháp-Nhật, trường Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội EHESS Paris phác họa về toàn cảnh kinh tế Nhật Bản hiện nay :
Brieuc Monfort : « Nhìn chung, kinh tế Nhật Bản còn chưa vững chắc lắm nhưng đã có nhiều tiến bộ trong ba năm từ 2021 đến 2024 dưới thời thủ tướng Fumio Kishida. Đấy cũng là thời điểm sau đại dịch Covid và trung bình, GDP tăng khoảng 1,2 % một năm. Nợ công bắt đầu giảm và tỷ lệ thất nghiệp hiện ở mức 2,5 % tức là mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những chỉ số khả quan đó thì như đã biết trong một thời gian dài, Nhật Bản phải đối mặt với hiện tượng giảm phát. Cố thủ tướng Shinzo Abe đã bắt đầu lật ngược tình thế, đẩy lạm phát lên được đến 1 %. Dưới chính quyền Kishida, Nhật Bản hoàn toàn thoát khỏi giảm phát và khi ông rời phủ thủ tướng, thì lạm phát ở Nhật Bản là 3 %. Tuy nhiên một phần dân chúng bị thiệt thòi vì lương của họ không tăng nhanh như vậy. Thêm vào đó là hiện tượng đồng yen bị mất giá khiến đời sống càng thêm đắt đỏ. Trong khi đó một số khó khăn trong giai đoạn Nhật Bản phải đối mặt với đại dịch Covid vẫn chưa hoàn toàn được khắc phục ».
Tác động kép đè nặng lên sức mua của người dân
Theo giới quan sát, đảng cầm quyền LDP đã bị cử tri trừng phạt qua lá phiếu lần này, chủ yếu do những tai tiếng tham nhũng trong bối cảnh mãi lực của người dân sụt giảm dưới tác động kép của lạm phát và nhất là hiện tượng đồng yen trượt giá so với đô la Mỹ.
Brieuc Monfort : « Trong năm nay tỷ giá của đồng yen Nhật Bản trồi sụt thất thường. Đầu năm, 140 yen đổi lấy 1 đô la Mỹ nhưng đến tháng 7 vừa qua thì phải cần đến 160 yen mới mua được 1 đô la. Thế rồi chúng ta đang trở lại với tỷ giá hối đoái 140-150 yen ăn 1 đô la như hồi đầu năm. Đơn vị tiền tệ của Nhật bị mất giá do lãi suất ngân hàng của Nhật rất thấp so với tại châu Âu và Hoa Kỳ. Nhưng trong tháng 3/2024 và tháng 7/2024, Ngân Hàng Trung Ương tăng lãi suất chỉ đạo trở lại. Dù vậy, lãi suất ngân hàng ở Nhật vẫn thấp hơn so với ở các nơi khác, cho nên các nhà đầu tư Nhật Bản và nước ngoài rút vốn khỏi xứ hoa anh đào, để mua đô la và euro, ký gửi vào các ngân hàng ở Mỹ và châu Âu để kiếm lãi nhiều hơn. Một khi có lãi, họ đem euro và đôla đổi trở lại sang đồng yen và do tiền tệ của Nhật bị mất giá, các nhà đầu tư này lại càng lãi nhiều hơn nữa. Đó là hiện tượng đầu cơ carry trade - giao dịch chênh lệch lãi suất. Hiện tượng này càng làm suy yếu đồng yen ».
Trên nguyên tắc một đồng yen mất giá có lợi cho các nhà sản xuất xứ hoa anh đào bởi Nhật Bản là một quốc gia xuất khẩu công nghiệp - đặc biệt là trong lĩnh vực hàng cao cấp, nhưng nguy hiểm đối với đảng cầm quyền trong thời gian gần đây, theo giới sư Monfort, là ở chỗ công luận Nhật « khó thở » vì những tai tiếng tham nhũng.
Hai ẩn số lớn : Trung Quốc và Hoa Kỳ
Bất ổn chính trị từ sau cuộc bầu cử lần này càng gây thêm lo ngại cho các doanh nghiệp Nhật Bản và các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng đây chỉ là một thách thức mới vào lúc mà Nhật Bản bị xem là quốc gia chịu áp lực lớn nhất từ cuộc đọ sức giữa hai nền kinh tế và siêu cường thế giới là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Cuộc tranh hùng giữa Washington và Bắc Kinh khuấy động tình hình tại châu Á Thái Bình Dương với hai điểm nhậy cảm nhất hiện tại là Biển Đông và eo biển Đài Loan.
Cuối tháng 9/2024 lần đầu tiên một tàu chiến Nhật Bản đi qua eo biển Đài Loan, nơi mà theo thẩm định của hãng tin Mỹ Bloomberg « gần 50 % trong số các tàu chở hàng của thế giới phải đi qua ; 88 % giao thương đường biển cũng phải trung chuyển qua eo biển Đài Loan » vào lúc Bắc Kinh luôn xem việc thống nhất Đài Loan là một mục tiêu phải đạt được.
Đài Loan cũng là nguồn cung cấp chính trên thế giới chip điện tử tân tiến nhất, một tử huyệt của ngành công nghiệp Nhật Bản. Giáo sư Brieuc Monfort nhấn mạnh, hai câu hỏi lớn đang đặt ra tại Tokyo hiện nay là kịch bản nào trong trường hợp Trung Quốc đưa quân xâm chiếm Đài Loan và Mỹ cần bao nhiêu thời gian để can thiệp.
Brieuc Monfort : « Nhật Bản và Trung Quốc là hai nền kinh tế có những mối liên hệ chặt chẽ. Ngay sau khi nhậm chức thủ tướng hôm mồng 01/10 Shigeru Ishiba đã lập tức điện đàm với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và đôi bên nhấn mạnh đến các mục tiêu tăng cường hợp tác, duy trì ổn định trong khu vực… Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản ; 20 % xuất và nhập của Nhật là để hướng sang thị trường Trung Quốc. Ngoài ra Tokyo còn là bên tham gia Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện Khu Vực -RCEP, cùng với Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc, New Zealand và khối ASEAN… Tầm ảnh hưởng của hiệp định này có thể chỉ giới hạn nhưng điều đó thể hiện quyết tâm của Nhật hội nhập vào mạng lưới thương mại mà ở đó Bắc Kinh cũng hiện diện. Trong điều kiện đó, nếu có xảy ra xung đột thì bên nào cũng sẽ phải trả giá đắt ».
Như phần còn lại trên thế giới, Tokyo cũng rất hồi hộp chờ đợi kết quả bầu cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 05/11/2024 khi biết rằng 55.000 lính Mỹ đang đồn trú trên lãnh thổ Nhật Bản và ứng cử viên của bên đảng Cộng Hòa từng đem cả vế an ninh ra để mặc cả với các đồng minh quân sự thân thiết nhất của Washington. Đó là lý do giải thích vì sao, Tokyo không ngừng tăng ngân sách quốc phòng.
Nguy cơ bị tụt hậu, nỗi ám ảnh của Nhật
Bên cạnh những mối lo ngại vừa nêu, một trong những điểm cơ bản khác nữa là Nhật Bản có nguy cơ bị mất ngôi vị hạng ba kinh tế toàn cầu vì hai lý do : viễn cảnh mất 30 triệu người lao động trong 25 năm sắp tới và bị tụt hậu trong lĩnh vực công nghệ số so với hai đại cường hiện nay là Mỹ và Trung Quốc. Vào lúc mà Trung Quốc đang vươn lên như một cường quốc công nghệ của thế kỷ 21 đủ sức để thách thức Hoa Kỳ thì liệu rằng Nhật Bản vẫn là một ngọn hải đăng trong thế giới công nghệ ? Với 40 % dân số trên 65 tuổi trong tương lai không xa, Nhật Bản liệu có thể tiếp tục dẫn dầu cuộc đua để cho ra đời những phát minh mới hay sẽ bị Mỹ và Trung Quốc đã đành, mà cả Hàn Quốc và Ấn Độ cùng qua mặt ?
Brieuc Monfort : « Nhật Bản bị chậm trễ so với nhiều quốc gia khác trong lĩnh vực phát triển công nghệ kỹ thuật số. Tuy nhiên, nói như thế cũng hơi bất công, bởi vì tuy không có những công ty khởi nghiệp, không có thung lũng công nghệ Silicon như của Mỹ nhưng Tokyo có một chính sách phát huy những công nghệ mới rất riêng biệt. Hơn thế nữa, Nhật Bản đẩy mạnh một số công nghệ mũi nhọn ít được phổ biến trong đại chúng. Về hiện tượng dân số bị lão hóa, thì đúng là từ nay đến ngưỡng 2050 thị trường lao động Nhật Bản sẽ mất đi thêm khoảng 30 triệu người ; tỷ lệ trên 65 tuổi trong dân số đang từ 30 % sẽ bị đẩy lên tới gần 40 % nhưng cùng lúc các chính quyền liên tiếp đã có một sự chuẩn bị dài hơi và đã có rất nhiều tiến bộ để bù đắp lại nhược điểm này ».
Vị trí nào trong cuộc chiến công nghệ và thương mại Mỹ-Trung ?
Theo báo cáo gần đây nhất của Tổ Chức Sở Hữu Trí Tuệ Thế Giới WIPO, Trung Quốc và Mỹ là hai quốc gia đang dẫn đầu về phát triển trí tuệ nhân tạo, Nhật Bản đứng hạng 4, sau Hàn Quốc và chỉ hơn có Ấn Độ trong nhóm « Top Five ». Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến của Nhật Bản lệ thuộc một phần lớn vào chip điện tử do Đài Loan sản xuất, vào kim loại hiếm mà đến nay Trung Quốc vẫn là nguồn cung cấp số 1 trên thế giới, chiếm từ 80 và có khi là đến hơn 95 % thị phần toàn cầu. Như giáo sư Monfort vừa nói 20 % xuất khẩu và nhập khẩu của Nhật Bản tùy thuộc vào một khách hàng duy nhất là Trung Quốc. Năm 2022, chỉ riêng các khoản giao dịch trên mạng internet, khách hàng Trung Quốc mua vào gần 14,5 tỷ đô la hàng made in Japan.
Chiến lược bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Hoa Đông và eo biển Đài Loan và nhất là cuộc cuộc tranh hùng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự, ngoại giao đến kinh tế và công nghệ là một yếu tố bất lợi cho Nhật. Những yếu tố này góp phần tăng tốc chính sách « tách rời khỏi Trung Quốc » của Tokyo : Sau tập đoàn Mitsubishi Motors đến lượt hãng xe Honda thông báo giảm nhân sự tại các nhà máy ở Hoa Lục.
Năm 2020 rồi 2022 bộ Kinh Tế và Thương Mại, Công Nghiệp Nhật Bản đã có hẳn một chính sách hỗ trợ doanh nghiệp dời cơ sở khỏi Trung Quốc sang Đông Nam Á hay trở về nguyên quán.
Nghịch lý ở đây là dù rất gắn kết và phụ thuộc vào lẫn nhau, quan hệ giữa Tokyo và Bắc Kinh thường xuyên căng thẳng vì những hồ sơ thương mại và công nghệ.
Tue, 29 Oct 2024 - 195 - Bầu cử tổng thống Mỹ : Giới doanh nhân thiên về Donald Trump
Hai tuần trước bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024, ứng cử viên của đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ được các doanh nhân Mỹ tín nhiệm hơn ? Bàn thắng có phần nghiêng về phía Donald Trump. Quỹ vận động tranh cử mà giới tài chính ở Wall Street huy động cho ứng viên Cộng Hòa cao gấp đôi so với của bên đảng Dân Chủ.
Trên dưới hơn 50 nhà tỷ phú Mỹ đã tuyên bố ủng hộ Donald Trump, mà ồn ào hơn cả là người giàu nhất thế giới Elon Musk cho dù trong quá khứ Musk và Trump từng mạnh mẽ đả kích nhau trước công chúng.
Trong danh sách những nhà tài phiệt ủng hộ Donald Trump có từ những tên tuổi lớn trong giới ngân hàng, những ông trùm tại thung lũng công nghệ Silicon và giới trong ngành công nghiệp khai thác dầu đá phiến tại Hoa Kỳ.
Trong danh sách đó có cả những nhà tỷ phú từng rất hào phóng tài trợ cho chương trình tranh cử của nhiều đời tổng thống bên đảng Dân Chủ, từ Bill Clinton, Barack Obama đến Joe Biden và cho phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ chạy đua vào Nhà Trắng là cựu ngoại trưởng kiêm đệ nhất phu nhân, Hillary Clinton hồi 2016, khi bà phải đương đầu với tỷ phú địa ốc New York Donald Trump.
Nhật báo kinh tế Pháp Les Echos (ngày 06/10/2024) ghi nhận đến nay Wall Street huy động 220 triệu đô la cho ông Trump và con số này cao hơn gấp đôi so với quỹ dành cho ứng viên bên đảng Dân Chủ, bà Kamala Harris.
Trong lần thứ ba ra tranh cử Donald Trump, 78 tuổi, không bị các doanh nhân ủng hộ ông chỉ trích là « già nua » hay là « một mối đe dọa đối với nền dân chủ Hoa Kỳ » (như tài phiệt Bill Ackman về trách nhiệm của Trump khi những người ủng hộ ứng viên đảng Cộng Hòa tràn vào tòa nhà Quốc Hội ở điện Capitol hôm 06/01/2021.
Không thấy nhà tỷ phú mang hai quốc tịch Canada và Mỹ, gốc Sri Lanka, Chamath Palihapitiya đánh đồng Donald Trump với Bernie Sanders, đại diện cho hai cánh cực hữu và cực tả « điên rồ ». Chamath giờ đây khẳng định Trump là một vị « tổng thống có tài, hoàn thành nhiệm vụ rất tốt » trong nhiệm kỳ 4 năm (2016-2020). Một số khác cũng dễ dàng « đổi ý » về ông Trump, mời cựu tổng thống Hoa Kỳ về nhà riêng và tổ chức những bữa tiệc để gây quỹ giúp ông chóng trở lại Nhà Trắng.
John Catsimatidis, 76 tuổi, một người Mỹ gốc Hy Lạp giàu có nhờ hệ thống siêu thị Gristedes đang có tham vọng ra tranh cử tranh chức thị trưởng New York tỏ ra hết sức thực tiễn : « Cộng tác với Donald Trump có nghĩa là có thể mở ra tất cả mọi cánh cửa trong giới doanh nhân ở New York ».
Nhìn chung, có ít nhất ba yếu tố khiến nhiều nhà tỷ phú Mỹ thiên về Donald Trump.
Hứa hẹn giảm thuế doanh nghiệp
Lý do đầu tiên, ứng viên của đảng Cộng Hòa hứa giảm thuế doanh nghiệp có lợi cho giới chủ. Donald Trump đề nghị hạ thuế doanh nghiệp đang từ 20 % xuống còn 15 % vào lúc đối thủ bên đảng Dân Chủ, bà Kamala Harris đòi đẩy mức thuế này lên 28 % và « đánh thuế nhà giàu ».
Trong nhiệm kỳ Trump, tháng 9/2019, tỉ lệ thất nghiệp ở Mỹ « rơi xuống còn 3,5 % và đấy là mức thấp nhất chưa từng thấy từ 50 năm qua ». Sau đó dưới tác động của đại dịch Covid, thất nghiệp ở Hoa Kỳ tăng cao lên trở lại và dao động ở ngưỡng trên dưới 8 %.
Trên sàn chứng khoán Wall Street, trong 4 năm nhiệm kỳ Donald Trump, các chỉ số Dow Jones và S&P500 tăng 50 % riêng chỉ số Nasdaq trong lĩnh vực công nghệ đã tăng lên hơn gấp đôi.
Hứa hẹn về một môi trường tự do « không giới hạn »
Theo tiết lộ của hãng tin Bloomberg ứng cử viên Donald Trump đã gặp gỡ không dưới 80 lãnh đạo các chủ doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn với một thông điệp duy nhất : trong trường hợp trở lại cầm quyền, ông « cởi trói » cho các doanh nghiệp. Xóa bỏ những biện pháp quản lý tài chính, chứng khoán mà chính quyền Joe Biden áp đặt với tập đoàn tham gia sàn chứng khoán Wall Street. Trump sẽ mở đường cho giới ngân hàng, cho các quỹ đầu tư « tự do hoạt động trở lại như thời kỳ trước khủng hoảng tài chính 2008 », theo tiết lộ của hãng tin Anh Reuters.
Với các tập đoàn dầu khí, ứng cử viên Donald Trump hứa sẽ « dẹp bỏ » các chuẩn mực về môi trường cũng do « chính quyền Biden đặt ra ».
Điều ngạc nhiên hơn cả là « các ông chủ » ở thung lũng công nghệ Silicon có khuynh hướng ủng hộ ông Trump. Từ trước đến nay, thế giới công nghệ và hành tinh « digital » ở Mỹ có truyền thống ủng hộ đảng Dân Chủ nhưng nay đang chuyển hướng.
Đối với David Sacks một nhà đầu tư lớn trong lĩnh vực công nghệ internet sáng lập viên quỹ đầu tư có mức độ rủi ro cao Craft Ventures ông ủng hộ Trump do thất vọng về chính sách kinh tế của chính quyền Biden mà ứng viên tổng thống Kamala Harris là một sự tiếp nối.
« Hiện tại mọi việc đang tiến triển rất tốt, rất thuận lợi cho Donald Trump và chúng tôi sẽ còn tích cực vận động cho ông hơn nữa (...) Công nghệ mới muốn có khả năng sáng tạo để đem lại những kỹ thuật mới, nhưng chính quyền Biden lại rất chống đối xu hướng này. Họ phản đối kịch liệt những tiến bộ trong lĩnh vực tiền crypto. Chính phủ này đã tìm cách giám sát quá mức nghiêm ngặt các hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Về cơ bản họ chủ trương loại bỏ các thương vụ cho phép một doanh nghiệp mua lại hay sáp nhập với một công ty khác ».
Trừng phạt chính sách kinh tế tệ hại của Biden
Một nhà quan sát Mỹ ghi nhận : Bốn năm qua chính quyền Biden đã phạm phải nhiều sai lầm trong mắt các nhà tài phiệt ở quốc gia tự do nhất trên thế giới. Đảng Dân Chủ muốn bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và giới làm công ăn lương, nên đã mở rộng vai trò cho các cơ quan giám sát tài chính, chứng khoán của ủy ban bảo vệ người tiêu dùng ... và thậm chí là cả bộ Tư Pháp. Tổng thống Biden chủ trương thu hẹp tầm hoạt động của các sàn giao dịch tiền ảo, thanh tra các doanh nghiệp lạm dụng quyền lực sa thải nhân viên, đòi giới chủ tăng lương cho người lao động và muốn chấm dứt thế độc quyền của một vài tập đoàn digital.
Omeed Malik sáng lập viên kiêm chủ tịch tổng giám đốc quỹ tài chính Farvahar Partner giải thích thêm :
« Một trong những lý do khác nữa, rất rõ ràng là môi trường với những biện pháp quản lý chặt chẽ nào là SEC - Ủy Ban Chứng Khoán và Hối Đoái, hay FTC tức là Ủy Ban Thương Mại Liên Bang Hoa Kỳ chống cạnh tranh… Tất cả các cơ quan giám sát đó chẳng những càng lúc càng khắt khe mà hoàn toàn không chủ dừng lại ở chỗ điều tiết các thương vụ M&A – mua bán hay sắp nhập các doanh nghiệp hay các hoạt động trong lĩnh vực tiền điện tử crypto ».
Tập đoàn Live Nation độc quyền thao túng thị trường mua bán vé xem hát và các chương trình giải trí tại Mỹ chẳng hạn đã trong tầm ngắm của bộ trưởng Tư Pháp Merrick Garland :
« Chúng tôi cáo buộc tập đoàn Live Nation độc quyền thống lĩnh thị trường phân phối vé hát trên toàn nước Mỹ. Hiện tượng này đã kéo dài quá lâu và đã đến lúc cần chấm dứt ».
Băng đảng Mafia PayPal
Nhưng trong số các nhà tài phiệt Mỹ ủng hộ ứng viên đảng Cộng Hòa, Elon Musk chủ nhân của Space X, của hãng xe điện Tesla và của mạng xã hội X, năng động nhất.
Hai tháng trước bầu cử tổng thống Mỹ, Donald Trump tuyên bố đếu đắc cử ông sẽ mời Elon Musk làm cố vấn để vực dậy kinh tế Mỹ, một nền kinh tế đang « đắm chìm trong khủng hoảng, suy đồi »
Cũng Donald Trump xem rằng, Elon Musk sau khi thâu tóm mạng xã hội Twitter cuối 2022 đã sa thải 75 % nhân sự chỉ giữ lại những người chấp nhận « luật chơi mới » và đấy là một tấm gương để đem lại hào quang cho Make America Great Again.
« Dân chủ và tư bản », hai khái niệm « đối chọi » với nhau
Thêm một lý do sau cũng được nhà xã hội học Pháp Olivier Alexandre thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia CNRS ghi nhận : « một số tỷ phú Mỹ đang có khuynh hướng muốn thiết lập một trận tự kinh tế mới ».
Peter Thiel cha đẻ của tập đoàn Palantir trong lĩnh vực thông tin và tin học viết sách chung với David Sacks quảng bá ý tưởng rằng « tư bản và dân chủ » là những khái niệm không thể song hành.
Elon Musk, Peter Thiel và David Sacks là ba cột trụ đã cho ra đời hệ thống thanh toán trên mạng PayPal và từ đó họ đã đặt nền móng cho khối tài sản bạc tỷ khổng lồ trước khi mỗi người tìm cho mình một hướng đi riêng. Nhưng Thiel, Musk và Sacks vẫn rất gắn bó với nhau. Họ mở rộng câu lạc bộ đến nhiều thành viên mới, một cộng đồng mà giới phân tích gọi là « băng đảng Mafia PayPal » bởi trong vỏn vẹn 2 thập niên nhóm này đã bành trướng và làm bá chủ trong thung lũng công nghệ California. Chính băng đảng Mafia PayPal đã áp đặt J.D Vance đứng liên danh với ông Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm nay. Mark Chapkin, người viết tiểu sử về Peter Thiel thậm chí mệnh danh J.D Vance là « cánh tay nối dài » của Thiel.
Thiel đã « đầu tư 35 triệu đô la để xây bệ phóng chính trị cho hai nhân vật thân tín là J.D Vance và Blake Master » nhưng đến nay chỉ có ông Vance là đã thành công, đắc cử thượng nghị sĩ bang Ohio năm 2022.
Năm 2022 Steve Banon, chiến lược gia và cũng là người đã có công đưa Donald Trump và Nhà Trắng từng quả quyết Peter Thiel là người thực sự muốn « thay đổi hẳn hướng đi » của Hoa Kỳ.
Jimmy Soni, tác giả cuốn sách mang tựa đề The Founders, nói về ba ông trùm của băng đảng Mafia PayPal viết : Elon Musk, Peter Thiel và David Sacks, « ba gã khổng lồ ở thung lũng công nghệ Sillicon » đã « lập ra một mạng lưới quyền lực nhất, và thịnh vượng chưa từng có », họ không chỉ thống lĩnh vùng Silicon Valley mà còn muốn áp đặt cả luật chơi với Hoa Kỳ.
Đối với mạng lưới này, Donald Trump đắc cử hay không sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ ngày 05/11/2024 tuy quan trọng nhưng không là tất cả. Điều quan trọng hơn nữa là « một sự sắp xếp về nhân sự sau Donald Trump » mà phần nào họ đang đánh cược vào thượng nghị sĩ bang Ohio, J.D Vance.
Crystal McKellar, một nhà đầu tư nặng ký ở Silicon Valley trông thấy ở ứng cử viên phó tổng thống này « một nhà tư bản chân chính và trung thành với thị trường tự do, ông tin tưởng vào tăng trưởng, vào sức mạnh của mọi khám phá về kỹ thuật, vào việc xóa bỏ mọi trở ngại đè nén tăng trưởng và thịnh vượng ».
Tue, 22 Oct 2024 - 194 - Các biện pháp khẩn cấp cứu vãn kinh tế của Trung Quốc chưa đủ để trấn an
Bơm thêm gần 500 tỷ đô la trong chưa đầy ba tuần lễ để « hỗ trợ thị trường tài chính và bất động sản, kích cầu » : Bắc Kinh tự giăng bẫy nợ và lừa gạt các cổ đông ? Giới đầu tư cho rằng tình trạng kinh tế của Trung Quốc « có thể tệ đến nỗi » chính quyền phải « cấp tốc can thiệp », nhưng các biện pháp đề ra lại kém thuyết phục, chưa đủ đề trấn an.
Theo bà Isabelle Feng, Trung Tâm Perelman, Đại học Tự Do Bruxelles và Asia Centre Paris, để giữ được mục tiêu tăng trưởng và đem lại một làn sinh khí mới cho kinh tế, Trung Quốc cần thuyết phục tư nhân huy động một phần 40.000 tỷ đô la đang ngủ yên trong các quỹ tiết kiệm.
Hai gó kích cầu 1.000 và 2.300 tỷ nhân dân tệ vẫn thiếu sức thuyết phục
Trong ba tuần, từ ngày 24/09 đến 12/10 chính quyền Trung Quốc ba đợt thông báo các biện pháp « hỗ trợ kinh tế ». « Tiếp sức cho các thị trường chứng khoán, vực dậy ngành địa ốc, giảm gánh nặng nợ nần cho các chính quyền địa phương, tăng vốn hòng nới lỏng khả năng cấp tín dụng của các ngân hàng nhà nước »là ba mục tiêu đã được từ thống đốc Ngân Hàng Trung Ương đến bộ trưởng Tài Chính Trung Quốc lập đi lập lại trong các cuộc họp báo. Bắc Kinh báo trước sẽ công bố nay mai về vế thứ tư để thúc đẩy kinh tế đó là trực tiếp hỗ trợ « một số đối tượng trong xã hội cần được giúp đỡ ».
Trả lời ban Việt ngữ RFI chuyên gia về luật và tài chính Isabelle Feng, thuộc trung tâm nghiên cứu Perelman, Đại Học Tự Do Bruxelles-Bỉ và Asia Centre ở Paris nhấn mạnh đến một chi tiết quan trọng trong « kế hoạch kích cầu » 1.000 tỷ nhân dân tệ, tương đương với khoảng 140 tỷ đô la được Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc loan báo.
Isabelle Feng : « Hôm 24 tháng 9 vừa qua, thống đốc Ngân Hàng Nhân Dân và lãnh đạo cơ quan điều tiết thị trường chứng khoán và tài chính Trung Quốc thông báo biện pháp 500 tỷ nhân dân tệ (gần 70 tỷ đô la Mỹ) hỗ trợ thị trường chứng khoán và số tiền này nằm trong gói kích cầu –stimulus 1.000 tỷ nhân dân tệ. Bắc Kinh nói đến một kế hoạch kích cầu nhưng phần lớn số tiền ấy là để tiếp sức cho các sàn chứng khoán ».
Trung Quốc đã sử dụng tất cả các công cụ tài chính ?
Cũng trong cuộc họp báo hôm 24/09 Bắc Kinh cho biết huy động nhiều công cụ tiền tệ để duy trì mục tiêu GDP tăng trưởng 5 % trong năm nay. Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương Phan Công Thắng kết hợp các chính sách giảm lãi suất chỉ đạo, giảm lãi suất tín dụng địa ốc, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc để các ngân hàng dễ dàng cấp tín dụng nhiều hơn cho các doanh nghiệp và tư nhân. Cùng lúc các giới chức tài chính Trung Quốc loan báo kể từ ngày 25/10/2024 khi đi mua nhà thân chủ chì cần chứng minh tối thiểu có vốn tương đương với 15 % căn hộ thay vì 25 % như trước đây.
Biện pháp này trực tiếp nhằm thúc đẩy thị trường địa ốc Trung Quốc. Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc khẳng định các biện pháp này cho phép bơm thêm « 19 tỷ đô la Mỹ vào cho 50 triệu hộ gia đình, tác động trực tiếp đến đời sống của 150 triệu người dân Trung Quốc » như chính ông Phan Công Thắng, thống đốc Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc đã ghi nhận.
Câu hỏi kế tiếp lài tại sao Trung Quốc lại muốn cứu thị trường địa ốc và tiêu thụ nội địa bằng cách nới lỏng chính sách tiền tệ thay vì huy động trực tiếp ngân sách của nhà nước ?
Đánh lừa cổ đông để huy động vốn cho doanh nghiệp
Theo Isabelle Feng, Bắc Kinh muốn hỗ trợ các cổ đông trước đã, do chứng khoán Trung Quốc đã đánh mất 6.000 tỷ đô la trong giai đoạn 2021-2023. Năm ngoái chỉ có cổ đông thua lỗ rong lúc chỉ số chứng khoán ở khắp mọi nơi đều tăng rất mạnh. Điều này khiến Trung Quốc dành đến 500 tỷ nhân dân tệ (70 tỷ đô la) trong giai đoạn đầu để thổi thêm sinh khí cho thị trường
Isabelle Feng : « Kế hoạch này cho phép các doanh nghiệp, các cơ quan môi giới, hay quỹ đầu tư thế chấp tài sản của mình để mua công trái phiếu và tín phiếu… qua đó, tự đẩy giá cổ phiếu của mình đang niêm yết trên các sàn chứng khoán lên cao. Biện pháp này vừa nhằm khiến các thị trường chứng khoán khởi sắc trở lại vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn ».
Bằng chứng cụ thể là trong « tuần lễ vàng » từ 01- 07/10/2024 chỉ số chứng khoán ở Thượng Hải, Hồng Kông và Thâm Quyến tăng mạnh, tăng gần 8% trong một thời gian rất ngắn. Nhưng để rồi lại tuột dốc mạnh trong phiên giao dịch hôm Thứ Ba 08/10/2024 (-9 %) khi thị trường tài chính, ngân hàng và công sở làm việc trở lại sau một tuần lễ nghỉ phép.
Chuyên gia về luật và tài chính của trung tâm nghiên cứu Perelman và Asia Centre giải thích : Bắc Kinh chọn thời điểm trước kỳ nghỉ lễ Quốc Khánh để công bố chính sách « kích cầu » gần 500 tỷ đô la, cho phép các công ty mua cổ phiếu của chính mình, qua đó một cách giả tạo, thổi phồng giá cổ phiếu lên cao. Cổ đông tư nhân háo hức muốn được hưởng lợi khi thấy chỉ số chứng khoánn đột ngột tăng nhanh trong vài ngày và đã ồ ạt đăng ký tham gia. Nhưng cùng lúc, các cổ đông lớn lợi dụng thời cơ bán bớt cổ phiếu để thu về tiền mặt. Điều này giải thích vì sao các trong phiên giao dịch từ ngày 8 đến 10/10 các thị trường ở Hồng Kong, Thượng Hải lao đao.
Chứng khoán Trung Quốc hay một canh bạc đầy rủi ro
Chính vì thế mà giới trong ngành quan niệm mua chứng khoán ở Trung Quốc còn nguy hiểm hơn « đánh bạc ».
Isabelle Feng : « Thị trường chứng khoán của Trung Quốc khác với châu Âu hay của Mỹ ở chỗ là chỉ số chứng khoán không trồi sụt tùy theo những thành quả kinh tế thực sự. Tại các thị trường tự do, giá cổ phiếu tăng khi một tập đoàn thịnh vượng. Trái lại ở Trung Quốc, ngay từ 2001 một kinh tế gia nổi tiếng đã ví von chơi chứng khoán ở Trung Quốc còn nguy hiểm hơn là đánh bạc, bởi Nhà nước mới là bên nắm giữ các công cụ để định hướng thị trường (...). Lần này theo dõi tình hình, chúng tôi thấy Bắc Kinh muốn tiếp sức cho thị trường chứng khoán. Cổ phiếu có tăng giá thì cổ đông mới phấn khởi hơn để chịu mua sắm và nhất là mua nhà. Trung Quốc muốn cứu nguy thị trường bất động sản bằng cách đó và khởi động lại tăng trưởng vốn bị đóng băng từ sau đại dịch Covid ».
Giải phóng 40.000 tỷ đô la trong các quỹ tiết kiệm
Vấn đề đặt ra là dân Trung Quốc khi có tiền họ đầu tư vào địa ốc, mua cổ phiếu và để dành trong các quỹ tiết kiệm. Khi mà cả thị trường nhà đất lẫn chứng khoán của Trung Quốc đều đang sụp đổ, tư nhân chỉ còn biết ủy thác tiết kiệm cho các ngân hàng.
Thống kê của Trung Quốc năm 2023 báo động khối lượng tiền ủy thác vào quỹ tiết kiệm tại các ngân hàng tăng hơn 15 %. Chỉ một mình Ngân Hàng Nông Nghiệp Trung Quốc năm ngoái thu vào hơn 25.000 tỷ nhân dân tệ. Khoản tiền này lớn hơn gấp 10 so với gói « kích cầu thứ nhì » được bộ trưởng Tài Chính Lam Phật An công bố hôm Thứ Bảy 12/10 vừa qua. Chính vì vậy các kế hoạch hỗ trợ kinh tế được Bắc Kinh công bố gần đây đồng loạt bị đánh giá là « quá khiêm tốn »
Isabelle Feng : « Số tiền đó là chưa đủ, hiểu theo nghĩa từ khi rơi vào khủng hoảng, 18.000 tỷ đô la đã bị bốc hơi, theo thẩm định của ngân hàng Anh, Barclays. Đó là một gánh nặng đối với các hộ gia đình Trung Quốc. Tính trung bình mỗi hộ bị mất khoảng 60.000 đô la. Đó là một số tiền lớn lắm. Khi mà nhà đất mất giá, các hộ gia đình thấy tài sản của họ bị thất thoát. Thành thử tôi không nghĩ rằng các biện pháp kích cầu vào trăm tỷ đô la lần này đủ thuyết phục dân chúng Trung Quốc tự tin để lại đi mua nhà ».
Điều này giải thích vì sao trong những ngày đầu tuần chỉ số Hang Seng ở Hồng Kông giảm giá (-3%). Giá dầu trên thế giới cũng giảm do không mấy ai chờ đợi kinh tế Trung Quốc khởi sắc trở lại, đẩy tiêu thụ dầu trên thị trường lên cao cho dù nguy cơ chiến tranh ở Trung Đông có thể đe dọa những giếng dầu của Iran.
Trung Quốc tự đẩy nợ của mình lên cao
Isabelle Feng, trung tâm Perelman và Asia Centre, không mấy hy vọng tính toán của Bắc Kinh muốn vực dậy thị trường bất động sản –chiếm đến gần 30 % GDP của các nước, bằng cách tạo một sự hứng khởi giả tạo trên các sàn chứng khoán.
Isabelle Feng : « Tôi không thấy là chính quyền có thể làm gì hơn được nữa : Trung Quốc đã hạ lại suất chỉ đạo của ngân hàng, đã giảm mức vốn tối thiểu một thân chủ cần có khi đi mua nhà, nới rộng khả năng của các ngân hàng để cấp tín dụng… Các thành phố lớn như Thượng Hải, Quảng Đông, Thâm Quyến … đã dỡ bỏ hết những rào cản hành chính để chiêu dụ khách hàng mua bất động sản. Vậy mà thị trường bất động sản ở những thành phố lớn này vẫn chết lịm ».
Nguy hiểm càng lớn hơn khi mà ba mũi tên chính đã được Bắc Kinh công bố để đem lại tăng trưởng, các gói « kích cầu » 1.000 tỷ nhân dân tệ, rồi 2.300 tỷ, tương đương với 500 tỷ đô la, có nguy cơ đẩy nền kinh tế thứ nhì thế giới vào cảnh nợ nần chồng chất còn nghiêm trọng hơn nữa trong lúc người dân không đủ tin vào tương lai để lại mua sắm và nhất là để đầu tư trở lại vào địa ốc.
Isabelle Feng: « Vấn đề của Trung Quốc là người dân như con chim phải đạn, họ không dám tiêu thụ nữa. Người ta mất niềm tin. Dân Trung Quốc nổi tiếng là lo xa nên gửi tiền tiết kiệm rất nhiều. Hiện tại, khoảng 40.000 tỷ đô la Mỹ đang được ký gởi trong các ngân hàng. Thành thử nếu không giải phóng được số tiền đó – hay một phần số tiền đó để khuyến khích tiêu thụ thì Trung Quốc khó mà khởi động lại được cỗ máy kinh tế. Yếu tố chính trị mới là gốc rễ của vấn đề »
Tue, 15 Oct 2024 - 193 - Iran -Israel : Vẫn hy vọng thế giới tránh được một cuộc khủng hoảng dầu lửa
Teheran và Washington cùng theo đuổi một giấc mơ : tránh được một cuộc khủng hoảng dầu hỏa. Trong một tuần lễ, giá dầu trên thế giới tăng thêm 9 % trước nguy cơ Trung Đông bị đẩy vào chiến tranh. Trước mắt Teheran không dám chận eo biển Ormuz nơi 30 % dầu khí Trung Đông đi qua. Washington thừa biết trước bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, Israel tấn công nhà máy dầu của Iran làm tiêu tan mọi hy vọng đắc cử của Kamala Harris, ứng viên đảng Dân Chủ.
Iran là một trong ba giếng dầu lớn nhất trên thế giới và cho dù từ 2018 dầu hỏa Iran bị Hoa Kỳ mạnh tay trừng phạt, năm 2023 mỗi ngày Teheran vẫn sản xuất hơn 3 triệu thùng dầu, (chiếm 3 % sản lượng của thế giới). Một nửa trong số đó là để phục vụ thị trường nội địa, với 86 triệu dân. Nửa còn lại là để xuất khẩu. Trung Quốc là khách hàng lớn nhất mua dầu hỏa của Iran.
Sự kiện Teheran bắn 200 tên lửa sang lãnh thổ Israel trong đêm 01/10/2024 bắt buộc Nhà Nước Do Thái phải trả đũa với khả năng các cơ sở dầu hỏa của Iran có thể là mục tiêu tấn công, bởi dầu khí chiếm 41 % kim ngạch xuất khẩu của Cộng Hòa Hồi Giáo Iran. Dù vậy kịch bản hai nước thù nghịch trong khu vực là Iran và Israel lao vào một cuộc chiến đã không làm dấy lên một cơn« sốt dầu hỏa » trong những ngày tiếp theo đó.
Mỹ muốn tránh « một cơn sốt dầu »
Phải đợi đến khi từ Washington tổng thống Biden cho biết « đang thảo luận về khả năng Israel đánh vào các nhà máy dầu » của Iran, giá dầu mới tăng thêm 7 % trong phiên giao dịch hôm 03/10/2024. Chưa đầy 24 giờ sau, chủ nhân Nhà Trắng cải chính rằng để trả đũa Iran, « Israel có nhiều phương án khác ngoài việc nhắm vào các cơ sở năng lượng » của đối phương. Trong phiên giao dịch ngày 07/10/2024 giá dầu trên thế giới vượt ngưỡng 80 đô la một thùng -thấp hơn 130 đô la/thùng khi Nga đánh Ukraina hồi tháng 2/2022.
Giới trong ngành nói đến hiện tượng « thị trường dầu hỏa thế giới thêm căng » nhưng đồng loạt cho rằng trong hoàn cảnh hiện tại, không thể coi đây là một cuộc khủng hoảng dầu lửa như kịch bản từng xảy ra hồi thập niên 1970.
Giám đốc tạp chí đầu tư Investir của Pháp, François Monnier trên đài phát thanh tư nhân Radio Classique giải thích :
« Giá dầu hỏa đã được nhân lên gấp 4 lần khi nổ ra chiến tranh Kippour (năm 1973). Dưới tác động cuộc Cách Mạng Hồi Giáo Iran năm 1979 giá dầu nhân lên gấp đôi. Hiện tại dầu hỏa được cho là vẫn ổn định cho dù có tăng thêm 7 % trong tuần qua. Nhiều lý do giải thích khách biệt so với hồi thập niên 1970 : một là giới trong ngành không tin rằng thế giới rơi vào cảnh khan hiếm dầu. Bản thân Ả Rập Xê Út chủ trương giảm bớt lượng sản xuất vì không tin rằng chiến tranh leo thang tại Trung Đông. Hai là ngay cả trong trường hợp tình hình ở Trung Đông có xấu đi thì đừng quên rằng thế giới có thể trông cậy vào dầu đá phiến của Mỹ. Trong một chục năm, thị phần dầu hỏa của Hoa Kỳ trên thế giới đang từ 10 % tăng vọt lên thành 20 %. Dầu hỏa của Mỹ giảm thiểu vai trò và ảnh hưởng của khối OPEC. Sau cùng kinh tế toàn cầu đang trong giai đoạn tăng trưởng chậm khiến mức cung cao hơn mức cầu ».
Trên đài phát thanh Canada- Ottawa, chuyên gia về năng lượng Ivan Cliche, đại học Montréal cho rằng, bầu cử tổng thống Mỹ mới là yếu tố quyết định đối với thị trường dầu hỏa thế giới hiện nay :
« Phản ứng của thị trường trong tình trạng bất an. Hoa Kỳ sắp bầu lại tổng thống. Mọi người đều biết là luôn có một mối liên hệ giữa giá xăng dầu tại Mỹ với tỷ lệ được lòng dân của ứng cử viên tổng thống trong chính quyền mãn nhiệm. Nếu giá dầu tăng mạnh, điều đó không tốt cho ứng viên bên đảng Dân Chủ là bà Kamala Harris. Tuy nhiên có hai yếu tố cần theo dõi chặt chẽ : một là liệu Israel có tấn công vào các nhà máy dầu của Iran hay không. Năng lượng bảo đảm gần 50 % thu nhập cho Iran. Đánh vào dầu hỏa và khí đốt của nước này có nghĩa là trực tiếp tấn công vào kinh tế và qua đó làm suy yếu Iran. Điểm thứ hai là thị trường đang hồi hộp chờ đợi xem rằng Teheran có đóng cửa eo biển Ormuz hay không. Đây là nơi từ 15 đến 20 % sản xuất dầu hỏa trên thế giới phải đi qua. Trong hai trường hợp này, tình hình sẽ thực sự trở nên phức tạp ».
Trả lời báo Le Monde, chuyên gia về Iran, Thierry Coville, thuộc Viện Quan Hệ Chiến Lược của Pháp IRIS cho rằng, Teheran sẽ « chỉ đóng cửa eo biển Ormuz trong trường hợp bất khả kháng, vì biện pháp này sẽ có nhiều hậu quả tai hại với bản thân Iran » : Vịnh Ba Tư là một trong những cửa ngõ quan trọng của giao thương quốc tế, và là ngả duy nhất đưa năng lượng của Ả Rập Xê Út, Irak, Iran và cả Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, cũng như Kowei ra thế giới bên ngoài. Ngay cả trong chiến tranh Iran-Iran thập niên 1980 eo biển Ormuz vẫn là vùng « bất khả xâm phạm ».
Giới hạn từ chính sách cấm vận dầu Iran
Theo thống kê của tổ chức OPEC, khối các quốc gia xuất khẩu dầu hỏa, mà Iran là một trong số các sáng lập viên, năm 2023 nhờ xuất khẩu dầu hỏa, Teheran thu về 41 tỷ đô la. Cũng Iran năm ngoái thông báo đầu tư 18 tỷ đô la nhằm « nâng cao khả năng sản xuất » tại 6 giếng dầu ở các khu vực miền nam và tây nam. Iran đề ra mục tiêu « cung cấp thêm đến gần 400.000 thùng dầu một ngày ».
Vậy Mỹ và Israel có thể siết chặt thêm các biện pháp trừng phạt nhắm vào xuất khẩu dầu hỏa của Iran để cô lập thêm chế độ của giáo chủ Khamenei hay không ? Đầu tháng 2/2024 chính quyền biden đã ban hành thêm một loạt các biện pháp « trừng phạt kinh tế »nhắm vào Iran với lý do Teheran vi phạm lệnh trừng phạt của cộng đồng quốc tế, « rửa tiền và bán dầu hỏa cho một số đối tác có liên hệ với Trung Quốc, Nga và Syria (…) chủ yếu là để tài trợ lực lượng đặc nhiêm Quds của Iran ».Giáo sư Ivan Cliche, đại học Montréal không tin rằng trừng phạt và cấm vận dầu hỏa Iran là những công cụ thích hợp nhất :
« Ban hành thêm lệnh cấm vận Iran vẫn là một công cụ Mỹ có thể sử dụng, nhưng rõ ràng là biện pháp này dù đã được áp dụng từ nhiều năm nay nhưng không đem lại hiệu quả mong muốn. Điểm chính ở đây là thị trường dầu hỏa thế giới đang trong tình trạng sản xuất dư thừa. Cung cao hơn cầu. Do vậy các thành viên trong khối OPEC muốn áp đặt quota để giữ giá ở quãng từ 80 đến 90 đô la một thùng dầu. Ngoài ra, nhiều nước sản xuất và xuất khẩu không thuộc khối OPEC -như là Mỹ cũng có khả năng cung cấp thêm dầu cho thế giới. Nói cách khác, về trung hạn, thị trường dầu hỏa thế giới không lo thiếu dầu. Ả Rập Xê Út có thể sản xuất thêm từ một đến một triệu rưỡi thùng dầu mỗi ngày để lấp vào chỗ trống. Nhưng trong những tháng sắp tới, giá cả trên thị trường còn tùy thuộc vào lượng dầu tiêu thụ mỗi ngày. Nếu cứ như hiện tại và không có điều bất ngờ xảy ra, thì tôi nghĩ là thị trường sẽ khá ổn định trong những tháng tới ».
Cũng trên đài phát thanh Canada, giáo sư quan hệ quốc tế Miloud Chennoufi, học viện quân sự Canada đưa ra một giải thích mang tính chính trị cho thấy Hoa Kỳ hoàn toàn không mặn mà trước khả năng Israel đánh mạnh vào tử huyệt của Iran là xăng dầu, với hy vọng lật độ chế độ trong tay giáo chủ Khamenei, cho dù đây là giấc mơ mà Benjamin Netanyahu đã ấp ủ để cố giữ chiếc ghế thủ tướng Israel :
« Có khả năng là Israel sẽ đáp trả bằng các biện pháp quân sự. Ngoài ra, đến nay các biện pháp trừng phạt Iran đã khá khắt khe. Siết chặt thêm trừng phạt thì sẽ bóp ngạt kinh tế của nước này và càng cô lập chế độ Teheran. Nhưng tình hình hiện tại đã rất nghiêm trọng. Sẽ nghiêm trọng hơn nữa nếu Israel và Teheran tuyên chiến và rất có thể là Mỹ sẽ can thiệp. Tuy nhiên Hoa Kỳ căn cứ vào một số yếu tố để xử lý hồ sơ Trung Đông. Kinh tế là một trong số những yếu tố đó. Tôi không nghĩ rằng tất cả mọi người chấp nhận để cho giá dầu hỏa tăng vọt tức là chấp nhận khả năng eo biển Ormuz bị đóng cửa hay giao thương bị gián đoạn ở Hồng Hải và kênh đào Suez do tác động của phe Houthi hồi giáo Yemen. Nói cách khác, nếu có chiến tranh với Iran, thì vế kinh tế sẽ trở thành một vấn đề khó giải quyết đối với Mỹ. Thêm vào đó nếu như Israel can thiệp vào Iran với mục tiêu lật đổ chế độ, thì điều đó làm gợi lại kinh nghiệm của Hoa Kỳ với Irak và đó là điều không hay bởi vì Mỹ cũng đã từng hứa hẹn xây dựng một chế độ mới cho người dân Irak và để rồi đã bị sa lầy tại quốc gia này ».
Đầu tháng 2/2024 chính quyền Biden đã ban hành thêm một loạt các biện pháp « trừng phạt kinh tế »nhắm vào Iran với lý do Teheran vi phạm lệnh trừng phạt của cộng đồng quốc tế, « rửa tiền và bán dầu hỏa cho một số đối tác có liên hệ với Trung Quốc, Nga và Syria (…) chủ yếu là để tài trợ lực lượng đặc nhiêm Quds của Iran ».
Jean Christophe Caffet, kinh tế trưởng cơ quan bảo hiểm ngoại thương của Pháp COFACE ghi nhận : Nga là bên duy nhất có lợi trong trường hợp eo biểu Ormuz bị đóng cửa, bởi đây là kịch bản duy nhất đẩy giá dầu lên cao và điều đó có lợi cho Matxcơva đang cần tài trợ chiến tranh Ukraina. Nhưng« ảnh hưởng của Nga tại Trung Đông khá hạn chế ».
Hơn một năm sau loạt khủng bố 7/10 trên lãnh thổ Israel, khủng hoảng ở Trung Đông đang lan rộng. Israel phong tỏa rồi oanh kích Gaza, mở thêm mặt trận tại Liban nhắm vào lực lượng vũ trang Hezbollah được Teheran yểm trợ. Cũng Israel tiêu diệt thủ lĩnh chính trị của phong trào Hamas khi Ismael Haniyeh khi ông này đang có mặt tại thủ đô Teheran và là khách mời của Cộng Hòa Hồi Giáo Iran đến dự lễ tuyên thệ nhậm chức của tân tổng thống Iran Massoud Pezeshkian hồi tháng 7/2024. Trong nửa năm, Iran đã hai lần trực tiếp tấn công Israel nhưng theo giới phân tích, Washington đang nắm giữ một phần chìa khóa để trả lời câu hỏi Trung Đông có bị đẩy vào chiến tranh hay không.
Điều may mắn hơn cả trước mắt là ở thời điểm này, cả Iran lẫn Hoa Kỳ cùng muốn tránh một « cuộc chiến »Iran-Israel : Teheran biết tiềm năng quân sự không đủ để đối chọi với Nhà nước Do Thái và không chắc là chế độ có thể tồn tại nếu phải lao vào chiến tranh. Ở góc đài bên kia, Israel muốn« giải quyết dứt điểm »mối đe dọa Iran, một quốc gia được cho là « sắp » có vũ khí nguyên tử. Nhưng Israel không thể tấn công Iran nếu không có vũ khí của Hoa Kỳ.
Ngót một tháng trước bầu cử tổng thống Mỹ chính quyền Biden bằng mọi giá cần khống chế đồng minh Netanyahu tránh đổ thêm dầu vào chảo lửa Trung Đông. Nếu thất bại và để nổ ra một cuộc khủng hoảng về dầu hỏa, giá dầu tăng gấp đôi, gấp ba so với hiện tại, thì coi như Joe Biden trả lại chìa khóa Nhà Trắng cho ứng cử viên Cộng Hòa Donald Trump.
Hơn bao giờ hết, Teheran đang kỳ vọng nhiều vào Washington.
Tue, 08 Oct 2024 - 192 - Pháp : Ngoại ô nghèo và kém an ninh, điểm đầu tư an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp ?
Làm thế nào để thu hút đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp Pháp và quốc tế về các vùng ngoại ô « nhạy cảm » ? Đó là mục đích Diễn Đàn Kinh Tế FEB đầu tiên tổ chức ngày 17 và 18/09/2024 tại quận 16 Paris, Pháp. Trong 5 năm liên tiếp, trong khối Liên Âu, Pháp là nước thu hút nhiều nhất đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo báo cáo của cơ quan Ernest&Young công bố đầu tháng 5/2024, nhưng chỉ có 5 % các dự án hướng về các vùng ngoại ô kém phát triển.
Theo Viện Thống Kê Quốc Gia Pháp INSEE tính đến cuối 2023 trên toàn quốc có 5,4 triệu dân, tương đương với 8 % dân số, sống tại hơn 1.500 khu thuộc « Những khu vực ưu tiên trong chính sách phát triển thành phố -quartier prioritaire de la politique de la ville QPV».
Đây là những nơi tỷ lệ thất nghiệp cao hơn từ 2 đến 3 lần so với mức trung bình trên toàn quốc ; gần 25 % giới trẻ từ 16 đến 25 tuổi bỏ học và không có việc làm ; 44 % sống dưới ngưỡng nghèo khó và một nửa có thu nhập thấp hơn so với mức lương tối thiểu ở Pháp.
Đài Quan Sát Quốc Gia về Chính Sách Phát Triển Thành Phố -OPV ghi nhận, hơn 70 % dân cư tại ở những QPV là công nhân và tầng lớp thợ thuyền ; gần 22 % là người nhập cư và để so sánh thì trên toàn quốc, trung bình người nhập cư chiếm 12,9 % dân số. Đây cũng là nơi, tập trung nhiều gia đình một mẹ, đông con.
Vùng Seine – Saint Denis, ngoại ô phía bắc Paris, là nơi tập trung 25 % các khu cần ưu tiên phát triển, mà ngôn ngữ thông thường hay gọi là các vùng « ngoại ô thuộc diện nóng » với nhiều vấn đề : « hai phần ba sống trong các khu nhà do xã hội trợ cấp, dân chúng tại đây khó hội nhập vào thị trường lao động và 1 người trên 5 thất nghiệp, 68 % là công nhân thợ thuyền và phần lớn trong số ấy dù có việc làm vẫn mang nợ chồng chất ».
Trở ngại thứ nhì đối với những khu vực nhạy cảm này là hình ảnh những khu phố « mất an ninh ». Trong quá khứ, Pháp trải qua nhiều cuộc « khủng hoảng ở các vùng ngoại ô » như hồi 2005 hay gần đây nhất là năm 2023 khi một số các ngoại ô nghèo « bốc cháy », thanh niên đốt phá trường học, siêu thị, ngân hàng hay cơ quan môi giới tìm việc làm cho người thất nghiệp… Những hình ảnh đó càng tạo nên thành kiến không tốt đẹp về những vùng cần tạo công việc làm cho thanh niên, cần mở thêm trường học, mở thêm phòng khám bệnh, mở thêm những nơi sinh hoạt cho giới trẻ.
Thay đổi cách nhìn về những QPV
Do vậy sáng lập viên của Diễn Đàn Kinh Tế FEB ông Azis Senni đề ra mục tiêu làm thay đổi cách nhìn của các doanh nhân về những vùng ngoại ô nhậy cảm. Là cột trụ trong bản tổ chức mời gần 100 lãnh đạo các tập đoàn đủ cỡ và các chính khách cấp vùng, cấp quốc gia đến tham dự sự kiện, Aziz Senni nhấn mạnh : trên 1.580 QPV không chỉ là một gánh nặng về mặt xã hội hay kinh tế như mọi người lầm tưởng mà đây còn là một trong những khu vực có nhiều tiềm năng, bảo đảm 75 tỷ euro doanh thu một năm, nơi đến nay đã mở rộng cửa đón nhận 250.000 công ty.
« Mục tiêu của diễn đàn FEB nhằm trả lời câu hỏi chúng ta có thể làm được những gì cho các vùng ngoại ô nghèo và mất an ninh về mặt kinh tế. Trong ba thập niên, nước Pháp đã có những chính sách cải thiện an ninh, mở mang đô thị và đầu tư vào mặt xã hội để cải thiện bộ mặt của các khu vực này, nhưng chưa thực sự có hẳn một chính sách kinh tế để giúp các vùng ngoại ô kém phát triển trở thành những điểm thu hút đầu tư, những vùng năng động có tính thuyết phục cao với các doanh nghiệp Pháp, và nước ngoài (…) Pháp đã có hẳn chương trình Choose France : Pháp là một trong những điểm thu hút đầu tư quốc tế lớn nhất thế giới, nhưng chỉ có 5 % trong số đó đổ về các vùng ngoại ô 'nóng'. Đó là lý do vì sao chúng tôi muốn rằng các vùng ngoại ô còn kém phát triển phải được hội nhập tốt hơn nữa vào trào lưu này ».
Trong số các khách mời của diễn đàn kinh tế FEB Paris lần này có nhiều bộ trưởng, chủ tịch cấp vùng, cấp tỉnh, thị trưởng đặc trách về chính sách phát triển thành phố, về công tác đào tạo hay phụ trách các tổ chức hội đoàn dẫn dắt thanh niên ở các khu vực kém phát triển. Nhưng đông đảo hơn hết là sự hiện diện của các doanh nhân. Trong số này có những người đã rất nổi tiếng, điều hành những đại tập đoàn hàng chục tỷ euro doanh thu như tỷ phú Xavier Niel trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ điện thoại và internet, hay giám đốc điều hành chi nhánh của Google tại Châu Âu Jalil Chikhi ...
Về phía các tiểu doanh nghiệp, có và nhiều chủ công ty vừa và nhỏ như chủ nhân Fullsoon, một công ty gia đình mới chào đời cách nay 2 năm, mang trí tuệ nhân tạo vào phục vụ cho các chủ nhà hàng, hay như trường hợp của Adil Bouatasssa, sáng lập viên kiêm tổng giám đốc AxyDis chuyên bảo đảm các dịch vụ viễn thông và điện thoại cho khách hàng trong hệ thống mạng 4G và 5G. Hãng này hoạt động từ 2017 lập địa bàn ở Cergy, vùng Val d’Oise, cách Paris hơn 30km về hướng tây bắc. Cergy nổi tiếng là nơi có nhiều trường đại học tốt, nhưng cũng là một điểm nóng, kém án toàn.
Tiếp cận thị trường là một thách thức đối với các QPV
Trả lời RFI tiếng Việt, Adil Bouatassa cho biết đã bắt đầu mở công ty đầu tiên từ cách nay 20 năm và đã nhiều lần nếm mùi thất bại trước khi tạo được cơ sở cho AxyDis với gần 700 thân chủ, với mối liên kết với các đối tác lớn trong ngành điện thoại viễn thông như SFR của Pháp, CISCO của Mỹ …
Adil Bouatassa : « Chúng tôi chọn mở doanh nghiệp tại Cergy, một địa điểm mang tính chiến lược trước hết là về địa lý và kế tới đây là một khu vực rất năng động về kinh tế. Cergy nằm gần khu vực công nghiệp ở Saint- Ouen l’Aumône, sát cổng thành tây bắc Paris, một trong những khu công nghiệp lớn nhất châu Âu. Hãng của chúng tôi có hơn 40 nhân viên và từ Cergy, AxyDis dễ dàng giao tiếp với các khách hàng ở khắp nơi trong vùng Paris và phụ cận. Hơn nữa Cergy là một trung tâm đào tạo có uy tín với không dưới một chục trường quản trị kinh doanh, đại học, trường kỹ sư… Chúng tôi kết nối với các trường để đón nhận thực tập viên. AxyDis cũng là điểm khởi đầu cho các em sinh viên bước vào thị trường lao động, để từ đó các bạn trẻ có kinh nghiệm, bay nhẩy vào các hãng lớn ».
Có sự hỗ trợ của chính quyền
Cũng trong cuộc trả lời dành cho RFI Việt Ngữ, giám đốc AxyDis giải thích cụ thể hơn khi quyết định mở công ty tại thành phố Cergy ông đã được chính phủ khuyến khích dưới hình thức nào.
Adil Bouatassa : « Các khoản trợ giúp được phân ra thành ba loại : Chính phủ miễn thuế doanh nghiệp cho các công ty đến đây hoạt động trong một thời gian đầu, chúng tôi cũng được miễn đóng góp cho các quỹ an sinh xã hội và sau cùng là một khoản trợ cấp 15.000 euro khi mà chúng tôi tuyển dụng một nhân viên. Điều khoản này nhằm khuyến khích tuyển dụng nhân viên ngay ở những khu vực được gọi là QPV tức là những vùng thuộc diện ưu tiên trong chính sách phát triển thành phố ».
Adil Bouatassa nói thêm những khoản trợ cấp trong khuôn khổ chính sách phát triển thành phố của Pháp chỉ được áp dụng trong thời gian đầu, đó là thời gian cần thiết để mở rộng mạng lưới với khách hàng. Và ông nói thêm là từ khi lao vào việc mở công ty mỗi ngày làm việc của ông thường là từ 15 tiếng đồng hồ trở lên.
Những hình ảnh xấu về các vùng ngoại ô nghèo
Trở lại câu hỏi tại sao chính phủ Pháp đã có rất nhiều kế hoạch để nâng đỡ, để phát triển các vùng ngoại ô thuộc diện nóng, nhưng đây vẫn là nơi bị coi là mất an ninh, là một gánh nặng cho xã hội, chủ tịch tổng giám đốc hãng cung cấp dịch vụ internet và viễn thông, AxyDis cho rằng, đấy là một sự bất công và cũng là một thành kiến về những QPV chung quanh Paris. Adil Bouatassa lớn lên ở Cergy và làm việc tại đây từ 20 năm qua nên đủ kinh nghiệm để so sánh :
Adil Bouatassa : « Tôi điều hành doanh nghiệp từ 20 năm nay, bộ mặt của các vùng ngoại ô thuộc diện nóng ở quanh Paris giờ đây khác nhiều so với hơn 2 thập niên về trước. Hồi trước, các bạn trẻ ở đây không có phương tiện kết nối với thế giới bên ngoài, với thị trường lao động ; không có ngõ thoát, không tìm được việc làm. Ở các vùng này không có dịch vụ thuê bao xe Uber, không có UberEat để giao và đặt đồ ăn đến tận nhà. Họ cũng không có mạng xã hội để kết nối. Vấn đề càng thêm nghiêm trọng khi mà giới trẻ không giao tiếp được với ai, cũng không có những tổ chức hay hiệp hội để dẫn dắt họ … Các em không có cơ hội nào để thoát ra khỏi môi trường xã hội chung quanh… Bây giờ thì khác, các bạn trẻ có cơ hội làm ăn, họ mở công ty… Đương nhiên là vẫn còn nhiều vấn đề, cũng vẫn có những thành phần lêu lổng, phá làng phá xóm chứ không phải là không, nhưng theo chỗ tôi biết, hiện tượng này đã giảm đi nhiều so với trước. Để thay đổi bộ mặt cho các khu ngoại ô nhạy cảm, nhiều thành phố đã dẹp bỏ hẳn một số chung cư cao tầng cũ kỹ, để thay bằng những khu ở tập thể khoáng đãng hơn, lành mạnh hơn … »
Các chương trình đạo tạo vừa học vừa làm
Cuối cùng, Adil Bouatassa, một trong những khách mời của diễn đàn kinh tế Pháp FEB đầu tiên về tình trạng các vùng ngoại ô kém phát triển, nhấn mạnh : giáo dục và đào tạo là chìa khóa thành công trong chính sách phát triển những vùng ngoại ô nhậy cảm ở Pháp
Adil Bouatassa : « Giờ đây việc tiếp cận thông tin, tiếp cận với các chương trình giáo dục đã trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Đây không còn là những rào cản đối với các bạn trẻ ở các vùng ngoại ô kém phát triển. Các công ty chung quanh cũng tuyển dụng người tại chỗ, tạo cơ hội cho các bạn trẻ không học hành đến nơi đến chốn, để họ cũng có thể hội nhập vào thị trường lao động. Thí dụ như là thông qua các chương trình ‘vừa học vừa làm’. Ngay các hãng, các công ty nhỏ ở trong khu vực nhận thực tập sinh, đào tạo cho các em, để chúng có được một cái nghề, đồng thời có cơ hội thực hành, giao tiếp với khách hàng … Thí dụ như ở chỗ chúng tôi, các em đi học 2 ngày trong tuần và 3 ngày còn lại thì đi thực tập ở các hãng…Điều này giúp các em hiểu được luật chơi của thị tường lao động, phải có trách nhiệm trong công việc của mình. Nhà trường và công việc làm là những cơ hội giúp các em trưởng thành. Điều tôi nghi nhận được là một số các bạn trẻ vừa học vừa làm, rốt cuộc họ tiếp tục đi học thêm để thăng tiến, một số khác thì say mê với nghề nghiệp, và rồi đứng ra mở công ty : đó có thể là một hiệu ăn nhỏ, một cửa hiệu cắt tóc, một hãng giặt ủi, hay một là một công ty dịch vụ sửa chữa đồ điện gia dụng … và chính các em lại trở thành đầu tàu để giúp tiếp cho các thế hệ đi sau …Thường thì có tới gần 90 % các em mở hãng quanh quẩn gần khu họ sinh ra và lớn lên. Điều đó giúp các khu ngoại ô nghèo năng động hẳn lên. »
Mùa hè 2023 một số các vùng ngoại ô nghèo ở Pháp lại « bốc cháy » sau cái chết của một thiếu niên bị cảnh sát rượt đuổi. Báo Le Figaro thân hữu ngày 13/07/2023 tổng kết lại các kế hoạch được các chính phủ Pháp liên tục đề xuất từ thập niên 1970 để thu hẹp khó khăn của những vùng ngoại ô thuộc diện nhậy cảm : Paris đã « đổ hàng chục tỷ euro vào các vùng ngoại ô nghèo, đề xuất không biết bao nhiêu sáng kiến » qua các kế hoạch mang tên các đời bộ trưởng của các bên tả hữu mà vẫn chưa xóa được những cách biệt về mặt xã hội, về kinh tế giữa những vùng « ngoại ô cần được ưu tiên phát triển này » với phần còn lại của nước Pháp.
Nhật báo Le Monde với lập trường tương đối« trung lập », trong bài viết ngày 05/09/2023 tức hai tháng sau làn sóng bạo động hồi mùa hè năm ngoái cũng đưa ra nhận định : tại các khu vực kém phát triển về kinh tế, các vấn đề vẫn tồn tại. Giới trẻ vẫn gặp khó khăn trên con đường hội nhập và các doanh nhân Pháp dường như vẫn thận trọng trong các dự án đầu tư vào những vùng thuộc diện « ưu tiên này ».
Tue, 01 Oct 2024 - 191 - Khí đốt, lá chủ bài để Ukraina mặc cả với Nga ?
Bất chấp chiến tranh, Matxcơva và Kiev vẫn tôn trong hợp đồng 5 năm để đưa khí đốt của Nga sang châu Âu qua lãnh thổ Ukraina. Cũng vì xung đột 2 trong số 4 ngả xuất khẩu khí đốt của Nga cho Liên Âu bị tắc nghẽn. Trước khi Gazprom và Naftogaz đàm phán lại về một thỏa thuận mới cho giai đoạn 2025-2029, Kiev tấn công vùng Kurk, chiếm Soudja, tạm thời kiểm soát một cửa ngõ xuất khẩu năng lượng của Nga để tạo thêm sức mạnh cho « kế hoạch chiến thắng ».
Phải chăng đây là một tính toán để Ukraina mặc cả với chính quyền Putin về « kế hoạch » chấm dứt chiến tranh mà tổng thống Volodymyr Zelensky đem đến Washington, trình bày với tổng thống với quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ ?
Ngày 05/09/2024, phát biểu tại Diễn Đàn Kinh Tế Vladivostock, tổng thống Putin nhìn nhận kinh tế Nga sẽ bị « thiệt hại về tài chính » nếu Kiev không triển hạn hợp đồng với tập đoàn dầu khí Gazprom để xuất khẩu khí đốt của Nga cho Liên Hiệp Châu Âu. Hợp đồng hiện hành sẽ hết hiệu lực vào ngày 31/12/2024. Trên nguyên tắc Gazprom của Nga và Naftogaz của Ukraina sẽ phải đàm phán lại về một thỏa thuận 5 năm, nhưng cuối tháng 8/2024 tổng thống Zelensky chính thức thông báo « ngừng triển hạn » thỏa thuận với phía Nga.
Bài toán đối với Gazprom càng thêm nan giải từ khi Kiev mở chiến dịch tấn công vùng Kursk hồi đầu tháng 8/2024, kiểm soát thành phố Soudja, trạm cuối cùng trước khi khí đốt của Nga « bước vào lãnh thổ Ukraina » ở thành phố Soumy.
Khí đốt, công cụ chính trị đôi bên cùng khai thác
Trả lời RFI tiếng Việt, từ Matxcơva Arnaud Dubien, giám đốc điều hành Đài Quan Sát Pháp Nga, nhắc lại về tầm mức quan trọng của Ukraina trong hệ thống xuất khẩu năng lượng của Nga :
Arnaud Dubien: « Hệ thống đường ống dẫn dầu và khí đốt đặt trên lãnh thổ Ukraina có từ thời Liên Xô. Khi đó trước hết là để cung cấp năng lượng của Liên Xô cho các nước trong khối xã hội chủ nghĩa ở đông Âu. Đến khoảng thập niên 1970 thì Liên Xô bắt đầu cung cấp luôn cả cho nhiều nước tây Âu. Hệ thống các đường ống này tuy đã cổ lỗ nhưng chúng vẫn tồn tại ngay cả khi Liên Xô sụp đổ và vẫn còn tiếp tục hoạt động sau ngày 24/02/2022 khi Nga tuyên chiến với Ukraina. Trước chiến tranh, 5 năm một lần, Matxcơva và Kiev vẫn đàm phán lại về thỏa thuận khí đốt. Đôi bên đã từng trải qua hai cuộc khủng hoảng vào năm 2005 rồi 2019 khi mà chính quyền Ukraina bày tỏ mong muốn tiến gần hơn về phía phương Tây. Khí đốt như vậy trở thành một công cụ chính trị để Nga bắt chẹt Ukraina và trong chiều ngược lại đối với Kiev, là cửa ngõ để đưa năng lượng của Nga ra thế giới bên ngoài giúp Ukraina chiếm được một lợi thế. (…)
Cho đến hiện tại, điều ngạc nhiên là thỏa thuận giữa Nga với Ukraina về khí đốt vẫn hoạt động, đơn giản do Liên Hiệp Châu Âu vẫn tiêu thụ khí đốt của Nga. Cho dù là hai bên tham chiến nhưng đối với Matxcơva, hệ thống đường ống đi qua lãnh thổ Ukraina quan trọng hơn bao giờ hết. Ngả này chiếm một trọng lượng rất lớn đối với kinh tế của Nga, do những đường ống dẫn khác, như Nord Stream hay Yamal phải đi qua lãnh thổ Ba Lan, đã bị gián đoạn ».
Gazprom mất gần 90 % thị trường ở châu Âu
Trước khi Matxcơva khởi động « chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraina » hàng năm Nga xuất khẩu 150 tỷ mét khối khí đốt sang Liên Âu, qua bốn ngả khác nhau (Ukraina, Nord Stream, Yamal và Turkish Stream). Hiện tại, dưới tác động chiến tranh, khối lượng khí đốt của Nga xuất khẩu sang châu Âu đã sụt giảm đến hơn 87 % trong chưa đầy ba năm. Để đến được châu Âu khí đốt của Nga phần lớn vẫn phải « quá cảnh » ở Ukraina. Theo hợp đồng hiện hành Gazprom và Naftogaz đã thông qua hồi 2019, mỗi năm 40 tỷ mét khối khí đốt của Nga bán sang châu Âu chung chuyển qua lãnh thổ Ukraina. Cuối 2023 trên thực tế chỉ có 12-13 tỷ mét khối đi qua ngả này. Để so sánh trong giai đoạn « cực thịnh » 2008-2019, trung bình một năm các đường ống trên lãnh thổ Ukraina chuyển 90 tỷ mét khối khí đốt của Nga đến người tiêu dùng châu Âu.
Dù có suy giảm mạnh nhưng đến nay Nga và Ukraina vẫn không dám xa rời nhau trên hồ sơ khí đốt. Sau hơn 940 ngày chiến tranh, hệ thống các ống đưa khí đốt của Nga sang châu Âu đi ngang qua lãnh thổ Ukraina vẫn nguyên vẹn ; khí đốt là một trong những hồ sơ hiếm hoi mà đối thoại giữa Matxcơva và Kiev chưa bao giờ bị gián đoạn. Về mặt chính thức, Ukraina không còn « nhập khẩu »dầu khí của « kẻ thù » mà dựa hẳn vào năng lượng của « đồng minh châu Âu ». Có điều Liên Âu vẫn là một khách hàng mua vào khí đốt của Nga, nhất là khí hóa lỏng.
Đầu óc thực dụng của Matxcơva và Kiev
Hệ thống đường ống dẫn khí đốt này phần nào là « một lá bùa hộ mạng » cho Ukraina. Arnaud Dubien, Đài Quan Sát Pháp Nga từ Matxcơva giải thích điện Kremlin sẽ không dám động vào hệ thống này chừng nào mà Liên Âu còn phải mua năng lượng của Nga. Về phía Kiev, chính quyền của tổng thống Volodymyr Zelensky cũng không dại để mất đi một nguồn thu nhập nhờ « cho thuê đất »hàng năm vẫn nhận được từ tay Gazprom.
Arnaud Dubien: « Các đường ống dẫn khí đốt phần lớn được chôn trong lòng đất, Nga tránh không oanh kích vào các khu vực đặt các đường ống dẫn sang Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ. Về phía Ukraina thì Kiev cũng không dám chận các hệ thống chung chuyển này, vì đó là khí đốt xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu. Có điều thình thoản Kiev ‘làm mình làm mẩy’ với một số thành viên trong Liên Âu như là Áo, Hungary hay Slovakia vì những nước này kém mặn mà giúp đỡ Ukraina. (…) Cần phải đợi thêm một vài tuần nữa mới biết được tiến trình đàm phán về thỏa thuận khí đốt giữa Nga và Ukraina sẽ diễn tiến ra sao. Điều chắc chắn duy nhất là lần này, hai tập đoàn Gazprom của Nga và Naftogaz của Ukraina không trực tiếp đàm phán như điều vẫn thấy từ trước đến nay ».
Ukraina chơi trò « rung cây dọa khỉ »
Vậy phải chăng việc ông Zelensky tuyên bố ngừng triển hạn thỏa thuận khí đốt giữa tập đoàn năng lượng Ukraina Naftogaz và đối tác Nga là Gazprom chỉ là đòn « rung cây dọa khỉ », bởi vì cắt đường ống dẫn khí đốt với Nga, Kiev sẽ gây khó khăn cho thị trường năng lượng tại Liên Hiệp Châu Âu, điểm tựa quan trọng cả về quân sự lẫn kinh tế và nhất là năng lượng của Ukraina ?
Arnaud Dubien: « Gazprom mất một phần lớn thị trường châu Âu. Trước đây tập đoàn này xuất khẩu mỗi năm hơn 150 tỷ mét khối khí đốt sang Liên Hiệp Châu Âu. Hiện tại chỉ còn chừng từ 20 đến 30 tỷ mét khối. Đây là một thiệt hại rất lớn đối với kinh tế Nga, bảo đảm từ 20 đến 30 % tiêu thụ cho Liên Âu. Sau hơn 2 năm chiến tranh tỷ lệ này rơi xuống còn 15 % nhưng phải nói rõ trong số 15 % ấy thì chỉ có một nửa là khí đốt, nửa còn lại là khí hóa lỏng (LNG). Công nghiệp khí hóa lỏng lại do một tập đoàn tư nhân Nga Novatek sản xuất và xuất khẩu, thành thử ra, Gazprom lại càng thua thiệt nhiều ».
Theo thống kê của viện nghiên cứu châu Âu Bruegel tại Bỉ, cuối 2023 Gazprom chỉ còn kiểm soát 5 % thị trường Liên Hiệp Châu Âu. Tuy nhiên ông Dubien tin rằng dưới hình thức này hay hình thức khác, Nga và Ukraina cũng sẽ tìm được đồng thuận vì không bên nào muốn giết chết con gà đẻ trứng vàng. Ukraina vẫn cần có năng lượng bảo đảm cho tiêu thụ nội địa, cần để ngỏ van cho khí đốt của Nga tiếp tục chảy sang 27 nước thành viên Liên Âu, nhất là một số quốc gia trong khối này như Áo vẫn lệ thuộc đến 98 % vào « khí đốt của Nga ».
Nga không thể để mất châu Âu
Ở góc đài bên kia, Matxcơva không thể để mất thị trường châu Âu. Cuộc chiến nào rồi cũng có ngày sẽ kết thúc, Liên Âu ở sát cạnh cửa ngõ của nước Nga với hơn 500 triệu người tiêu dùng. Thêm một thực tế khác là những nỗ lực của các nhà sản xuất và xuất khẩu dầu khí Nga để chuyển hướng sang châu Á vẫn chưa mang lại kết quả mong muốn.
Arnaud Dubien: « Châu Á chưa thể thay thế châu Âu để mua khí đốt của Nga -hay cùng lắm là chỉ mới thế chỗ được một phần nào mà thôi. Chúng ta cần phân biệt giữa khí đốt và khí hóa lỏng. Novatek khai thác LNG từ khu vực Yamal và xuất khẩu sang châu Á bằng tàu thủy, Gazprom cũng bán khí đốt cho các khánh hàng ở châu Á bằng ngả này. Do vậy, hiện tại khối lượng xuất khẩu sang châu Á không nhiều và cũng chính vì thế mà Gazprom đầu tư vào hai đường ống Power of Siberia 1 và 2, để thỏa mãn thị trường Trung Quốc. Đường ống Siberia 1 đã bắt đầu hoạt động từ 2019 và có khả năng cung cấp khoảng 38 tỷ mét khối khí đốt một năm. Để so sánh trước đây, Gazprom từng xuất khẩu mỗi năm 150 tỷ mét khối cho Liên Âu. Chính vì cần mở rộng thị trường tại châu Á, Gazprom đã khởi động dự án thứ nhì là Siberia 2 và dự trù một khi hoạt động, đường ống này có thể cung cấp đến 50 tỷ mét khối hàng năm. Nhưng Bắc Kinh mặc cả quá chặt chẽ, còn phía Matxcơva thì không muốn bán rẻ năng lượng của Nga cho Trung Quốc và dự đường ống Siberia 2 còn dậm chân tại chỗ ».
Thêm một yếu tố khác nữa giải thích vì sao Nga có thể vẫn ngọt nhạt với Ukraina trên hồ sơ khí đốt, bởi bất chấp thời sự chiến tranh và những tuyên bố Bruxelles đòi « cai nghiện » năng lượng của Nga, thực tế cho thấy nhờ có Ukraina, Nga vẫn thu về 6 tỷ euro nhờ xuất khẩu năng lượng sang Liên Âu và đó vẫn là một nguồn thu nhập quý giá đối với các nhà sản xuất Nga. Hơn nữa, tổng thống Putin thừa biết năng lượng là một công cụ hữu hiệu để duy trì ảnh hưởng cả về kinh tế lẫn chính trị với nhiều nước trong Liên Âu. Nga không dại để Mỹ độc quyền cung cấp dầu khí cho Liên Âu, hay để tự trói mình vào hai khách hàng lớn nhất tại châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ.
Tue, 24 Sep 2024 - 190 - Công nghệ cao : Liên Âu đứng ngoài cuộc
Bỏ lỡ cơ hội phát triển công nghệ cao, kinh tế Liên Âu tụt hậu so với Hoa Kỳ và lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Mỹ có nhiều phương tiện tài trợ cho những phát minh mới. Trung Quốc thu hẹp khoảng cách và đọ sức ngang ngửa với Hoa Kỳ. Châu Âu mất dần những lợi thế cạnh tranh, tiền không nhiều, đầu tư không đúng chỗ và thiếu tầm nhìn tổng quát về chính sách công nghiệp chung.
Trên đây là những điểm chính trong báo cáo về tiềm năng cạnh tranh của Liên Hiệp Châu Âu đã được trình lên chủ tịch Ủy Ban Châu Âu hôm 09/09/2024. Tác giả là cựu thống đốc Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu - BCE Mario Draghi. Năm 2012 ông là người từng cứu đồng euro vào lúc đơn vị tiền tệ chung châu Âu bị tấn công, khối euro có nguy cơ bị tan rã do khủng hoảng tài chính Hy Lạp.
Liên Âu bị lạc hậu
« Hight Technologies » là nỗi ám ảnh Bruxelles và cũng là nguyên nhân dẫn đến một « sự tụt hậu của khối này so với Hoa Kỳ ». Năm 2002 GDP của châu Âu thấp hơn so với Mỹ 17 %. Hai thập niên sau khoảng cách là 30 % và « 70 % sự khác biệt đó là do Liên Âu thua kém về công nghệ cao ».
Mỹ đang dẫn đầu thế giới về trí tuệ nhân tạo, đang chạy nước rút để đầu tư vào công nghiệp chế tạo linh kiện bán dẫn.
Trả lời đài phát thanh France Culture (ngày 14/09/2024) Agathe Demairais đặc trách ban địa kinh tế thuộc Hội Đồng Châu Âu về Quan Hệ Quốc Tế (ECFR) nhận định Liên Hiệp Châu Âu hoàn toàn bỏ lỡ cơ hội trên tiến trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh. Trong số 50 doanh nghiệp hàng đầu thế giới về « công nghệ cao », chỉ có 4 hãng là của châu Âu và trong một vài dự án hiếm hoi mà Liên Hiệp Châu Âu đã chen chân được vào, thì 1/3 trong số doanh nghiệp đó sớm muộn gì rồi cũng di dời cơ sở sang Mỹ, bởi đấy mới là « đất lành chim đậu cho ngành high tech ».
Trong giai đoạn 2019-2023, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Liên Âu giảm 6 % trong lúc FDI đổ vào Mỹ tăng 63 % : thêm một dẫn chứng cho thấy châu Âu mất sức thu hút.
Đối với Trung Quốc, đầu tư của Liên Âu vào khâu Nghiên cứu và Phát Triển R&D thua kém xa. Trong các mảng công nghệ mới - chế tạo các bình điện cho xe ô tô, pin điện mặt trời và những vật liệu mới, Trung Quốc đang vượt trội. Theo báo cáo Draghi, 70 % những « vật liệu xanh » cho phép chuyển đổi sang một mô hình kinh tế « sạch » đều do Trung Quốc sản xuất. Hơn nữa toàn cầu bị phụ thuộc đến 80 % kim loại hiếm của Trung Quốc, và đây là những chất liệu để sản xuất bình điện hay chip bán dẫn, phục vụ mảng công nghệ kỹ thuật số.
Ba nguyên nhân giải thích Liên Âu mất khả năng cạnh tranh
Làm sao giải thích sự chậm trễ của Liên Hiệp Châu Âu trong chính sách phát triển công nghệ cao và khả năng cạnh tranh của khối này bị thu hẹp lại ?
Agathe Demarais thuộc Hội Đồng Châu Âu về Quan Hệ Quốc Tế (ECFR) trả lời :
« Đầu tiên hết là căng thẳng địa chính trị gia tăng. Tôi muốn nói đến sự đối đầu giữa Mỹ với Trung Quốc, đến chiến tranh Ukraina và xung đột ở Gaza : Điều đó có nghĩa là châu Âu phải huy động vốn đầu tư trở lại vào các phương tiện để phòng thủ thay vì dùng khoản chi tiêu đó vào mục tiêu phát triển. Chúng ta đã thấy là Hoa Kỳ yêu cầu châu Âu tăng chi tiêu quân sự. Cú sốc thứ nhì là khác hẳn với châu Âu, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều huy động rất nhiều phương tiện để thực hiện tham vọng dẫn đầu thế giới về công nghệ. Washington và Bắc Kinh cùng trong thế ‘tấn công’. Mỗi bên đều muốn dẫn đầu cuộc đua. Mỹ muốn giữ được thế cường quốc số 1 toàn cầu. Còn Trung Quốc cần thu hẹp khoảng cách với Mỹ. Cả hai cường quốc kinh tế này có một tầm nhìn toàn diện với chủ trương kết hợp chặt chẽ các chính sách thương mại, công nghiệp và an ninh. Châu Âu thì vẫn chưa hiểu được điều đó và chưa thích nghi được với hoàn cảnh mới mẻ này ».
Liên Âu mất những lợi thế đã có
Vì chiến tranh Ukraina Liên Âu mất nguồn cung cấp dầu hỏa và khí đốt của Nga. Mỹ và Trung Quốc là hai khách hàng lớn của châu Âu, căng thẳng giữa hai nền kinh tế hàng đầu này khiến cả Washington lẫn Bắc Kinh cùng « chuyển hướng » trong chính sách thương mại : Mỹ tập trung nhiều hơn vào Mêhicô, Canada và Việt Nam. Còn Bắc Kinh thì tranh thủ các thị trường của Nga, của khối Đông Nam Á, của Trung Đông và Châu Mỹ La Tinh. Riêng Liên Âu thì vẫn « an phận » với hai khách hàng truyền thống quan trọng nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thêm vào đó Bruxelles bị kẹt trong cái bẫy « phi carbon hóa » guồng máy sản xuất trước ngưỡng 2035. Đó là điều mà Agathe Demarais, thuộc hội đồng ECFR gọi là cú sốc thứ ba :
« Châu Âu đề ra mục tiêu nhanh chóng phi carbone hóa, tức là giảm thiểu lượng khí thải làm hâm nóng trái đất. Điều này đòi hỏi ngay từ bây giờ châu Âu phải lựa chọn giữa hai giải pháp : nhập công nghệ xanh của Trung Quốc hay là tự phát triển cả mảng công nghiệp ngày. Trong trường hợp đầu tiên, để tăng tốc tiến trình chuyển đổi năng lượng, Bruxelles phải chấp nhận nhập khẩu pin mặt trời và ô tô điện của Trung Quốc. Bruxelles chấp nhận lệ thuộc hơn vào công nghệ xanh của Trung Quốc. Nếu muốn tránh để lệ thuộc vào Trung Quốc thì Liên Hiệp Châu Âu phải đẩy mạnh công nghệ ô tô điện, năng lượng mặt trời … nhưng làm thế nào để cạnh tranh với hàng của Trung Quốc và của Mỹ trong lúc mà tiền điện ở châu Âu đắt gấp 2, gấp 3 lần so với Mỹ ? Trung bình để chuyển đổi sang mô hình sản xuất sạch, một nhà máy của châu Âu cần đầu tư 500 triệu euro trong 15 năm ».
Chín người, mười ý
Một nhược điểm lớn khác của châu Âu so với Hoa Kỳ và Trung Quốc là khối 27 thành viên hoàn toàn không đoàn kết và lại càng không có chung một tầm nhìn về chính sách phát triển công nghiệp. Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, mang quốc tịch Đức, bà Ursula von der Leyen mạnh mẽ hô hào « de–risking » để giảm bớt mức độ lệ thuộc vào hàng hóa, vào nguyên liệu vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc … Thế nhưng đồng hương của bà, là thủ tướng Olaf Scholz lại không bỏ lỡ một cơ hội nào để Bắc Kinh, tham dự các diễn đàn kinh tế, gặp gỡ các doanh nhân Trung Quốc … Trong sáu tháng đầu năm 2024, tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đức vào Hoa Lục lớn hơn so với thống kê của cả năm 2023.
Nhìn sang Tây Ban Nha, Madrid là một trong những tiếng nói mạnh mẽ nhất đòi tăng thuế đánh vào ô tô điện của Trung Quốc nhưng sau cuộc hội đàm với chủ tịch Tập Cận Bình tại Bắc Kinh hôm 09/09/2024 thủ tướng Pedro Sanchez đã « đổi giọng » vì sợ Bắc Kinh ngừng nhập khẩu thịt heo của Tây Ban Nha.
Nhưng về cơ bản, Lục Địa Già đang mất đi hai lá chủ bài quan trọng nhất để tạo được một sự năng động kinh tế về lâu dài. Agathe Demarais :
« Có hai yếu tố quyết định để một nền kinh tế có sức cạnh tranh mạnh : đó là tăng trưởng và dân số. Liên Hiệp Châu Âu gặp khó khăn trên cả hai phương diện này. Hệ quả kèm theo là Liên Hiệp Châu Âu trong tương lai càng bị tụt hậu. Từ nay đến năm 2040, mỗi năm thị trường lao động của khối này mất đi 2 triệu người, vì dân số đang già đi. So sánh tỷ lệ tăng trưởng về năng suất của một người lao động châu Âu và ở Mỹ, hiện tại châu Âu thua hẳn Mỹ. Cùng lúc, mỗi năm Hoa Kỳ đầu từ gần 900 tỷ đô la vào khâu Nghiên Cứu và Phát Triển R&D. Số tiền này cao gấp đôi so với đầu tư vào R&D của toàn khối Liên Âu. Chỉ riêng trong hai lĩnh vực là trí tuệ nhân tạo và máy tính lượng tử, 70 % các dự án xuất phát từ Hoa Kỳ ; 2/3 các khoản đầu tư vào thông minh nhân tạo hướng về Mỹ. Nhìn đến công nghệ sản xuất linh kiện bán dẫn, từ nay đến 2032, Hoa Kỳ tập trung đến 1/3 chíp điện tử tiên tiến nhất của thế giới. Trong tất cả các hoạt động mang tính chiến lược để đem lại tăng trưởng trong tương lai, châu Âu không đóng vai trò hàng đầu ở bất kỳ một lĩnh vực nào ».
Báo cáo Mario Draghi bắt mạch, chẩn bệnh và kê toa thuốc để Liên Hiệp Châu Âu có thể trở lại cuộc chơi công nghệ. Nhưng để chữa được bệnh, tài liệu này thẩm định Liên Hiệp Châu Âu cần dành ra hẳn 5 % GDP của toàn khối để đầu tư vào mảng hight tech.
Làm thế nào để huy động được từ 750 đến 800 tỷ euro một năm ? Nếu có được số tiền đó thì làm thế nào để sử dụng một cách có hiệu quả ? Mất bao lâu nữa Liên Âu mới làm chủ công nghệ chế tạo pin mặt trời, cánh quạt gió …. và ô tô điện như các nhà máy của Trung Quốc hiện tại ? Đến khi nào trình độ trí tuệ nhân tạo của châu Âu được hư hiện nay ở Mỹ ? Báo cáo Draghi không có câu trả lời.
Vả lại tài liệu vừa được công bố còn chưa ráo mực, đã bị nhiều thành viên trong Liên Âu –đứng đầu là Đức, phản bác. Bản thân bà von der Leyen vừa nhiệt tình cảm ơn tác giả của bản báo cáo về tiềm năng cạnh tranh của Liên Âu, vừa thận trọng trước những đề xuất cho phép khối này tìm được một chỗ đứng trên bàn cờ « hight tech » thế giới. Liên Âu ráo riết đi tìm lực đẩy để « phát triển » và mang lại tăng trưởng cho toàn khối, nhưng không thấy các con chim đầu đàn trong khối này hào hứng hay mạnh mẽ ủng hộ các đề xuất của ông Draghi để « đảo ngược thế cờ » để, bớt thua kém Mỹ và Trung Quốc.
Tue, 17 Sep 2024 - 189 - Châu Phi, sân chơi cho công nghệ mới và vũ khí Trung Quốc
Châu Phi không chỉ là kho dự trữ nguyên liệu cho Trung Quốc hay là nơi tiêu thụ hàng rẻ made in China mà còn là thị trường, phòng thí nghiệm của các nhà sản xuất Trung Quốc trong các lĩnh vực công nghệ mới và công nghiệp quốc phòng.
Diễn Đàn Hợp Tác FOCAC giữa Trung Quốc và Châu Phi 2024 vừa kết thúc. Là chủ nợ chính của châu Phi, Bắc Kinh cam kết « hỗ trợ tài chính » cho châu lục này 50 tỷ đô la cho ba năm sắp tới. Với trên 280 tỷ đô la tổng trao đổi mậu dịch hai chiều (năm 2023), Bắc Kinh là đối tác thương mại quan trọng nhất của châu Phi. Từ hơn 20 năm nay thâm hụt mậu dịch của châu Phi với bạn hàng Trung Quốc không ngừng gia tăng. Trung Quốc là nguồn cung cấp hàng rẻ cho 1,5 tỷ dân tại hơn 50 quốc gia châu Phi và đổi lại thì nhập khẩu nguyên và nhiên liệu từ châu lục này để nuôi cỗ máy sản xuất.
Bắc Kinh cần châu Phi
Xavier Aurégan, đại học Công Giáo Lille, tác giả cuốn sách vừa cho ra mắt độc giả năm nay « Chine, puissance Africaine - Trung Quốc, cường quốc tại châu Phi »- NXB Armand Colin, trên đài truyền hình Pháp France 24 nói rõ hơn :
« Kinh tế và công nghiệp Trung Quốc rất cần nguyên liệu để sản xuất và cung cấp khoảng 10 % thành phẩm, vật liệu cho thế giới. Châu Phi là kho nguyên liệu và khoáng sản của nhân loại và do vậy đã thu hút chú ý của Bắc Kinh ».
Nhưng Trung Quốc nay đã trở thành một nhà sản xuất hàng cao cấp như ô tô điện hay pin mặt trời… Trung Quốc cũng là nhà cung cấp các dịch vụ và thiết bị viễn thông tên tuổi trên thế giới, làm chủ công nghệ xây dựng nhà máy điện hạt nhân, công nghệ chế tạo xe lửa cao tốc và cả trong lĩnh vực quốc phòng. Đó là những lĩnh vực còn khó chen chân vào các thị trường phát triển của Âu Mỹ, Hàn Quốc hay Nhật Bản và Nga. Chỉ còn lại châu Phi, một châu lục với tiềm năng lớn. Tiếp đón trọng thể các lãnh đạo châu Phi tại Bắc Kinh vào tuần trước, chủ tịch Tập Cận Bình nhấn mạnh quan hệ giữa nền kinh tế thứ 2 toàn cầu và châu Phi chưa bao giờ « lành mạnh như hiện tại ».
Trả lời đài truyền hình Pháp-Đức, Arte, Valérie Niquet chuyên gia về Trung Quốc thuộc Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược FRS nhắc lại 50 tỷ đô la được ông Tập Cận Bình thông báo « hỗ trợ tài chính châu Phi »cho ba năm sắp tới trước hết là số tiền Trung Quốc cho châu Phi vay mượn và Bắc Kinh đã ít hào phóng hơn nhiều so với quá khứ :
« Trước hết 50 tỷ đô la viện trợ là số tiền thấp hơn nhiều so với những diễn đàn FOCAC trước đây. Tại Diễn Đàn Hợp Tác Trung Quốc-Châu Phi hồi 2018, Bắc Kinh cấp 60 tỷ đô la tín dụng cho châu Phi và tặng 60 tỷ cho châu lục này. (…) Kinh tế không còn tăng trưởng tốt như lúc trước, Trung Quốc không thể rộng rãi với các đối tác châu Phi, nhưng vẫn tiếp tục nhắm tới một số dự án trong lĩnh vực năng lượng, vào cơ sở hạ tầng… »
Chuyên gia Xavier Aurégan đi sâu hơn vào chi tiết : Theo ông thực ra trong số 50 tỷ đô la Bắc Kinh hứa viện trợ cho châu Phi trong ba năm sắp tới bao gồm 30 tỷ được cấp dưới dạng tín dụng, 10 tỷ dành để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động tại châu Phi và 10 tỷ đô la còn lại, thuần túy là tiền viện trợ. Nhưng phần lớn trong số 10 tỷ viện trợ này được dùng vào việc « thanh toán nợ hay trả tiền lãi cho chính các ngân hàng Nhà nước Trung Quốc ».
2 % tổng đầu FDI vào châu Phi
Một đặc điểm mà Xavier Aurégan lưu ý trong cuốn « Trung Quốc, cường quốc châu Phi »là trái với điều mọi người lầm tưởng, Trung Quốc đầu tư không nhiều vào châu Phi. Tại châu lục này, đầu tư Trung Quốc chỉ chiếm có 2 % FDI trong lúc tỷ lệ này là 63 % tại châu Á và 5 % ở châu Âu. Điều đó chứng tỏ, trong mắt các nhà đầu tư Trung Quốc, châu Phi không là một điểm đến an toàn, mà chỉ là một nguồn cung cấp nguyên liệu, một thị trường mua vào hàng hóa « made in China ».
Như Valérie Niquet vừa nêu, do tăng trưởng bị chựng lại, Trung Quốc đang khóa dần van tín dụng với các nước châu Phi. Các số liệu chính thức của nước này cho thấy năm 2016 Trung Quốc cho châu Phi vay 28 tỷ đô la, năm 2019 châu Phi chỉ còn nhận được 8 tỷ tín dụng, và đến 2022 thì chỉ còn có thể vay được 1 tỷ đô la của Bắc Kinh mà thôi.
Tiêu thụ nội địa yếu kém, sản xuất dư thừa : đó là những lý do khiến Bắc Kinh lại càng « rất cần » châu Phi như Pascal Boniface, giám đốc Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược của Pháp IRIS ghi nhận, đặc biệt là vào thời điểm mà Liên Hiệp Châu Âu và nhất là Hoa Kỳ « từng bước đóng cửa thị trường với Trung Quốc » : Châu Phi trở thành một thị trường tiềm năng để tiêu thụ pin mặt trời, bình điện và ô tô điện mà Trung Quốc không thể bán sang Âu Mỹ.
Châu Phi và nhu cầu tiêu thụ hàng cao cấp
Vào lúc trang thiết bị viễn thông của Hoa Vi đã bị cấm cửa tại Hoa Kỳ và một số nước trong Liên Âu thì tập đoàn này phải đi tìm những thị trường khác, với những nhu cầu khác về chất lượng, về mức cung cấp dịch vụ … Châu Phi vẫn cần phát triển các hệ thống cầu đường, cần có thêm cơ sở hạ tầng để mở mang kinh tế. Chuyên gia Valérie Niquet ghi nhận một thay đổi lớn về kinh tế và thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi :
« Đúng là Trung Quốc đã đáp ứng những nhu cầu thực sự của châu Phi vào thời điểm mà châu lục này bị phương Tây bỏ quên. Nhất là sau chiến tranh lạnh, không còn mấy ai thiết tha với châu Phi hay quan tâm đến nhu cầu phát triển của khu vực này nữa. Dù vậy Trung Quốc chỉ đầu tư vào những lĩnh vực có lợi cho họ. Những lĩnh vực đó gồm công nghệ viễn thông, đường sắt cao tốc … Giờ đây thì Bắc Kinh kỳ vọng rằng châu Phi là thị trường tiêu thu pin mặt trời, ô tô điện, bình điện … mà Trung Quốc sản xuất ».
Trả lời đài truyền hình Pháp France 24 chuyên gia địa chính trị Xavier Aurégan có cùng quan điểm đồng thời ông nhấn mạnh đến mảng dịch vụ mà các tập đoàn Trung Quốc từ nhiều năm nay đã hướng tới :
« Trung Quốc dè dặt trong việc đầu tư vào châu Phi vì sợ rằng châu lục này có nhiều rủi ro, nhưng đã đẩy mạnh các hoạt động về thương mại với châu lục này và nhất là giành được nhiều hợp đồng bảo đảm dịch vụ cho châu Phi. Về kinh tế, mục tiêu của Bắc Kinh là gặt hái được nhiều hợp đồng cung cấp dịch vụ ở hải ngoại (...) Có một sự khác biệt giữa các khoản xuất nhập khẩu và các hợp đồng bảo đảm dịch vụ do các công ty Trung Quốc tiến hành. Đó là những công ty Nhà nước hay của tư nhân. Tại châu Phi, Trung Quốc giành được 1 phần 3 các hợp đồng xây dựng, tức là nắm giữ một phần lớn của toàn thị trường, xây dựng từ hải cảng đến xa lộ, bệnh viện, trường học … cho châu lục này ».
« Rế rách cũng đỡ nóng tay »
Trong những lĩnh vực công nghệ mới Trung Quốc đã vươn lên thành một cường quốc, và đang cần xuất khẩu những sản phẩm cao cấp. Châu Phi không chỉ là thị trường mua vào quần áo, hay tủ lạnh, máy vi tính của Trung Quốc, mà nay đã có điều kiện để nhắm tới ô tô điện hay mua vào thiết bị viễn thông cung cấp các dịch vụ internet trên cả một châu lục rộng lớn…
Năm 2023 số lượng ô tô điện Trung Quốc xuất khẩu sang châu Phi đã được nhân lên gấp ba lần so với hồi 2022. Pin mặt trời « made in China » bán sang châu Phi tăng 57 % … theo các số liệu của Hải Quan Trung Quốc. Đương nhiên trong những địa hạt này, châu Phi không đủ « lớn » hấp dẫn như các ở châu Âu hay châu Mỹ nhưng đó là những giải pháp tạm thời cho phép cỗ máy công nghiệp của Trung Quốc tiếp tục sản xuất và tạo công việc làm cho người lao động Trung Quốc.
Thị trường vũ khí của các nhà sản xuất Trung Quốc
Bên cạnh mảng « hàng công nghệ cao » châu Phi còn là « một sân chơi » của các nhà sản xuất vũ khí Trung Quốc. Báo Hồng Kông South China Morning Post tháng 8/2023 ghi nhận Norinco, tập đoàn sản xuất vũ khí số 1 Trung Quốc « mở văn phòng đại diện » tại Senegal, trước khi « hiện diện thường trực » ở Mali, Côte d’Ivoire và nhiều nơi khác nữa tại Tây Phi.
Riêng trong vùng châu Phi ở phía nam sa mạc Sahara, Trung Quốc đứng thứ nhì trong danh sách các nguồn cung cấp cho khu vực này. Năm 2023 Cộng Hòa Dân Chủ Congo trang bị drone của Trung Quốc và Bắc Kinh cũng đã cung cấp không ít chiến dấu cơ cho châu Phi theo thông tin từ tạp chí ADF chuyên theo dõi các hồ sơ quân sự, quốc phòng tại châu Phi.
Zambia hiện đã trang bị trực thăng Trung Quốc, Soudan thì mua các hệ thống phóng rocket của Trung Quốc. Algérie là khách hàng quan trọng nhất của Bắc Kinh trên các thị trường mua bán vũ khí, đứng trên Tanzania, Maroc và Soudan.
Một nhà quan sát ghi nhận : Từ đầu thập niên 1980 Trung Quốc không trực tiếp tham gia vào bất kỳ một cuộc xung đột vũ trang nào, nhưng nền công nghiệp quốc phòng của nước này không ngừng phát triển. Châu Phi là « sân chơi », là « phòng thí nghiệm » cho các nhà sản xuất Trung Quốc. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng về ngoại giao và chiến lược của Bắc Kinh đối với châu lục này vào lúc mà Bắc Kinh muốn hình thành một trật tự thế giới mới và lãnh đạo « khối các nước phương nam ».
Tất cả các yếu tố vừa nêu cho thấy, có lẽ ông Tập Cận Bình đã thành thật khi tuyên bố bang giao giữa Bắc Kinh và châu Phi « chưa bao giờ tốt đẹp như hiện tại ».
Tue, 10 Sep 2024 - 188 - Tài nguyên : Mông Cổ trước những tham vọng của Nga và Trung Quốc
Mông Cổ là một quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên nằm sát cạnh hai ông khổng lồ là Nga và Trung Quốc. Láng giềng phương bắc của Ulaanbaatar là một trong những nguồn xuất khẩu khoáng sản phong phú và đa dạng nhất thế giới. Hàng xóm phương nam của Mông Cổ là nguồn tiêu thụ nguyên liệu lớn số 1 trên hành tinh. Vậy mà sự hiện diện của các tập đoàn khai thác Nga và Trung Quốc trên quê hương của Thành Cát Tư Hãn tới nay vẫn được coi là còn khiêm tốn.
Tài nguyên của Mông Cổ vẫn còn ngoài tầm kiểm soát của các nhà đầu tư Nga và Trung Quốc trong lúc mà các mỏ đồng, uranium và nhất là các kim loại hiếm rất được thế giới ưa chuộng vẫn còn đang được đợi để khai thác, đưa Mông Cổ trở thành một con Cọp châu Á bên cạnh con Rồng Trung Quốc hay con Gấu Nga.
Mông Cổ đang được ve vãn
Ngày 03/09/2024 tổng thống Nga bắt đầu chính thức viếng thăm Mông Cổ chỉ một tháng sau khi Ulaanbaatar tiếp ngoại trưởng Hoa Kỳ. Đầu tháng 7/2024 bên lề Hội Nghị Tổ Chức Hợp Tác An Ninh Thượng Hải diễn ra tại Astana, Kazakhstan, trong buổi làm việc với đồng cấp Mông Cổ, ngoại trưởng Trung Quốc nhấn mạnh Mông Cổ và Trung Quốc là hai quốc gia « không thể tách rời ».
Năm ngoái, tổng thống Emmanuel Macron thăm Mông Cổ ở cấp Nhà nước : Với diện tích rộng gấp ba lần so với Pháp, không có ngõ thoát ra biển, nằm kẹt giữa hai cường quốc hạt nhân là Nga và Trung Quốc, Mông Cổ có nguồn dự trữ lớn thứ nhì về uranium của thế giới và còn đợi được khai thác. Ngoài uranium được dùng để chế tạo bom nguyên tử và là lá chủ bài trong mọi chiến lược phát triển năng lượng hạt nhân, Mông Cổ còn có những hầm than, mỏ vàng, mỏ đồng .. mà nhiều « nước bạn » sẵn sàng cùng khai thác.
Trong cuộc chạy đua phát triển ô tô điện và các nguồn năng lượng sạch, phương Tây nhòm ngó đến các mỏ đất hiếm của Mông Cổ.
Sau nhiều thập niên chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, ngành công nghiệp khai thác quặng mỏ của Mông Cổ vẫn chưa cất cánh, thủ đô Ulaanbaatar vẫn chưa trở thành một trung tâm kinh doanh thịnh vượng như Dubai trong vùng thảo nguyên ». Nhưng không dễ đến gần các nguồn tài nguyên của Mông Cổ khi mà quốc gia này lệ thuộc đến 90 % vào năng lượng của Nga, đến 80 % hàng xuất khẩu từ Trung Quốc.
Nằm kẹt giữa Nga và Trung Quốc, nhưng Mông Cổ có hướng đi riêng
Trên đài phát thanh quốc tế RFI Pháp ngữ, chuyên gia về địa chính trị nghiên cứu về Mông Cổ Antoine Maire nhấn mạnh đến một sự độc lập với cả Nga lẫn Trung Quốc trong đường lối phát triển của Ulaanbaatar.
« Mông Cổ là một ốc đảo nằm kẹt giữa Nga và Trung Quốc và có một sự tranh giành ảnh hưởng với Ulaanbaatar giữa hai nước láng giềng khổng lồ này. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tồn tại được giữa hai siêu cường đó. Tuy nhiên có một sự đồng thuận trong giới lãnh đạo ở Mông Cổ để giới hạn ảnh hưởng của Nga và của Trung Quốc. Sự hiện diện ngay sát cạnh của hai nước lớn đó, cũng là một cái may cho Mông Cổ, vì đâu đó, Matxcơva và Bắc Kinh kềm hãm các tham vọng của lẫn nhau. Chung cuộc, vai trò của cả Nga và Trung Quốc đều không mang tính quyết định đối với Mông Cổ như mọi người thường nghĩ. Chính sách đối ngoại và chiến lược phát triển của Ulaanbaatar khá độc lập và đó là một sự khôn khéo của ngành ngoại giao Mông Cổ ».
Về phần giáo sư Jacques Legrand nguyên giám đốc Viện Ngôn Ngữ và Văn Minh Phương Đông INALCO – Paris, ông ghi nhận một bước nhẩy vọt trong đời sống của người dân Mông Cổ từ khi quốc gia này thoát khỏi cái bóng quá lớn của Liên Xô và nhất là tìm kiếm thêm những đối tác khác ngoài Bắc Kinh và Matxcơva để phát triển. Đối tác ở bên ngoài hai điểm tựa truyền thống là Nga và Trung Quốc ấy được giới trong ngành gọi tắt là « nước láng giềng thứ ba ».
« Đời sống của người dân Mông Cổ trong những thập niên gần đây đã đã có bước nhẩy vọt rất ngoạn mục. Dưới thời Liên Xô, công nghiệp khai thác quặng mỏ của Mông Cổ bị khống chế vì lòng tham của Matxcơva. Nhưng từ khi chế độ cộng sản cáo chung, Mông Cổ tìm lại được độc lập trong chính sách phát triển. Tiêu biểu nhất là ngay cả ở những vùng sâu, vùng xa, dân cư cũng đã có điều kiện để tiêu thụ rau quả tươi. Họ bắt đầu có điện nhờ pin mặt trời và có điều kiện sắm tủ lạnh, tủ đông đá… Tình trạng y tế đã tốt hơn hẳn... »
Trên con đường đi tìm một nước « láng giềng thứ ba », Mông Cổ đã đặc biệt chú ý đến Rio Tinto. Tập đoàn khai thác khoáng sản này của Úc qua trung gian một chi nhánh Canada này đã đầu tư vào mỏ Oyu Tolgoi cách không xa biên giới giữa Mông Cổ và Trung Quốc. Đây là coi là « mỏ vàng và đồng lớn nhất thế giới ». Một khi đi vào hoạt động, nửa triệu tấn đồng một năm đủ để sản xuất 6 triệu chiếc ô tô điện.
Phân quyền tránh tham nhũng và tránh bán rẻ tài nguyên quốc gia
Nhà nghiên cứu Antoine Maire nhắc lại khi Liên Xô sụp đổ Mông Cổ tiến hành một cuộc cách mạng kép : vừa tách rời khỏi quỹ đạo của Matxcơva vừa chuyển hướng theo mô hình dân chủ. Ngay từ cuối năm 1989 đầu năm 1990 Mông Cổ đã chấm dứt chế độ độc đảng, chuyển sang một mô hình chính trị đa nguyên. Mông Cổ cũng tránh tập trung quyền lực trong tay một vài chính trị gia nên đã thiên về chế độ nghị viện với 126 đại biểu Quốc Hội thay vì 78 người. Nhờ vậy mà Ulaanbaatar giảm thiểu được rủi ro guồng máy chính trị Mông Cổ bị một trong hai nước láng giềng quá lớn sát cạnh mua chuộc và tránh được cái bẫy bán rẻ tài nguyên cho một vài nhà đầu tư của Nga hay Trung Quốc. Chính vì thế mà tại mỏ than Talvan Tolgoi, chỉ cách biên giới Trung Quốc chưa đầy 200 km, ngoài tập đoàn Trung Quốc Shenhoa Energy, Mông Cổ đã cho phép tập đoàn Mỹ Peabody Energy và một đối tác Nga cùng vào hoạt động.
Nhưng trong bối cảnh hiện nay, như chuyên gia Pháp Antoine Maire nhận xét, căng thẳng về địa chính giữa Nga với nhiều nước phương Tây về Ukraina, rồi cuộc tranh hùng giữa hai siêu cường kinh tế thế giới là Trung Quốc, bài toán đối với Mông Cổ nan giải hơn :
« Mông Cổ có quyết tâm đa dạng hóa các đối tác để bớt phụ thuộc vào Bắc Kinh hay Matxcơva nhưng căng thẳng trong quan hệ giữa phương Tây với Nga và Trung Quốc – Matxcơva bị Âu Mỹ trừng phạt vì xâm chiếm Ukraina, cuộc đối đầu giữa Bắc Kinh và Washington khiến Nga và Trung Quốc khó chấp nhận để cho Mông Cổ đi tìm thêm các đối tác mới. Thêm vào đó thì Nga và Trung Quốc đã xích lại gần nhau đó cũng là một thách thức mới đối với Mông Cổ. Tuy nhiên đây cũng là một cơ hội bởi vì một phần giao thương giữa Nga và Trung Quốc phải đi qua Mông Cổ biến quốc gia này thành một ‘hành lang kinh tế’ (…) Chính trong khuôn khổ này mà Matxcơva và Bắc Kinh đã khởi động lại một dự án đường ống dẫn khí đốt Siberia2, nhưng tôi không tin là công trình này sớm đi vào hoạt động. Trên thực tế, không có nhiều dự án hợp tác kinh tế giữa Nga và Trung Quốc đi ngang qua Mông Cổ ».
Giáo sư Legrand lưu ý chẳng những Mông Cổ không hưởng lợi nhiều từ việc Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau, mà Ulaanbaatar cho đến nay vẫn bị Bắc Kinh bắt chẹt : là một khách hàng lớn mua vào khoáng sản của Mông Cổ nhưng khách hàng Trung Quốc mua than đá, đồng … của Mông Cổ với giá thấp hơn 30 % so với thị trường. Do vậy Ulaanbaatar không dại để hết cả trứng vào một giỏ :
« Đương nhiên sự gần gũi về địa lý và thế thượng phong về kinh tế của Trung Quốc có tác động đến Mông Cổ. Chẳng hạn như trào lưu phát triển công nghệ ô tô điện của Trung Quốc đẩy giá đồng trên thị trường kim loại lên cao. Mông Cổ có nhiều mỏ đồng nên cũng đã nghe ngóng tình hình và nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường với Trung Quốc, bớt lệ thuộc vào Nga ».
Công luận Mông Cổ « nóng ruột » chờ phép lạ kinh tế
Một thách thức lớn khác đặt ra cho các nhà lãnh đạo ở Ulaanbaatar là chiến lược phát triển dựa vào tài nguyên thiên nhiên, vào khoáng sản và đất hiếm sau gần 3 thập niên vẫn chưa mang lại kết quả mong muốn. Rất giàu tài nguyên nhưng hiện tại 30 % dân Mông Cổ vẫn sống dưới ngưỡng nghèo khó và quốc gia này vẫn chưa hóa thân thành một « Dubai của vùng thảo nguyên ». Mông Cổ từng kỳ vọng cũng sẽ phát triển nhanh như Hàn Quốc trong nửa cuối thế kỷ XX để trở thành một mắt xích công nghiệp của thế giới. Nhưng cho tới hiện tại, kinh tế Mông Cổ vẫn chưa cất cánh. Nhà địa chính trị Antoine Maire, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về Mông Cổ giải thích :
« Đòn bẩy duy nhất để khởi động lại cỗ máy sản xuất và đem lại tăng trưởng cho Mông Cổ là khai thác khoáng sản. Trong mục tiêu đó, Ulaanbaatar cần thu hút đầu tư nước ngoài để định vị các mỏ dự trữ, thăm dò và khai thác. Mông Cổ cần các phương tiện tài chính để mở mang các công trường … Bên cạnh đó, thì cũng phải kiểm soát các khoản đầu tư của các đối tác ngoại quốc tránh để một vài tập đoàn của Trung Quốc, của Nga hay bất kỳ một quốc gia nào khác thâu tóm các nguồn tài nguyên quốc gia. Có điều mảng công nghiệp khai thác khoáng sản của Mông Cổ đầy tiềm năng và hứa hẹn nhiều, nhưng vẫn chưa đem lại những thành quả cụ thể. Mông Cổ vẫn chưa bứt phá để trở thành một con Cọp kinh tế của châu Á. Công luận nước này khá bức xúc ».
Biết đâu tiến trình chuyển đổi năng lượng hiện nay của phương Tây và kèm theo đó là nhu cầu tiêu tụ về đất hiếm để sản xuất ô tô điện, pin mặt trời hay chip điện từ là một cơ hội bằng vàng để Mông Cổ tăng tốc phát triển khoáng sản, thực hiện giấc mơ trở thành một cường quốc công nghiệp của thế kỷ 21.
Tue, 03 Sep 2024 - 187 - Kinh tế Trung Quốc đình đốn, một thách thức cho ngành công nghiệp hạng sang của Pháp
Tăng trưởng và đà bật dậy của nền Trung Quốc là nỗi ám ảnh người giàu nhất hành tinh, tỷ phú người Pháp Bernard Arnaud, ông vua không ngai của ngành thời trang hạng sang và của nền công nghiệp de luxe trên thế giới. Chỉ một mình Trung Quốc đem về hơn 30 % doanh thu cho LVMH ông điều hành. Trong 2 quý đầu năm 2024 mức lãi của công ty giảm mạnh, do yếu tố Trung Quốc.
Ngành thời trang de luxe, nói riêng, nền công nghiệp hạng sang của Pháp nói chung quy tụ 4 đại tập đoàn (LVMH, Kering, Hermès và L’Oréal) chiếm hơn 1/3 trị giá trong số 40 tập đoàn hàng đầu tham gia thị trường chứng khoán Paris. Đây cũng là một con gà đẻ trứng vàng, đem về 5 % GDP cho nước Pháp. Châu Á và Mỹ là hai thị trường lớn nhất của những nhãn hiệu nổi tiếng, từ các nhà may Givenchy đến Chanel hay Dior, từ hãng rượu champagne Moët & Chandon đến hiệu kim hoàn và đồng hồ Cartier, từ hãng mỹ phẩm L’Oréal đến hiệu nước hoa Guerlain… Hầu hết trong số này lệ thuộc đến hơn 30 % vào các khách hàng của Trung Quốc. 80 % các sản phẩm như túi xách, giày da, thắt lưng, hay khăn quàng cổ của Hermès đều dành để xuất khẩu. Theo thẩm định của cơ quan tư vấn trong ngành thời trang hạng sang Bain&Compagny, trước khi đại dịch Covid bùng phát, 33 % thị trường hàng xa xỉ trên thế giới « đổ về » Hoa Lục và Hồng Kông.
Trả lời đài truyền hình Pháp France24, Bruno Lavagna tác giả cuốn sách mang tự đề Géopolitique de Luxe – Địa chính trị của ngành công nghiệp hạng sang (NXB Eyrolles) nhận định : châu Á, mà dẫn đầu là Trung Quốc, đang trở thành tâm điểm của thế giới.
« Nhìn lại lịch sử, khái niệm hàng hạng sang « de luxe » không mang tính toàn cầu, vì mỗi người, mỗi nền văn hóa họ có cái nhìn riêng về thế nào là hàng sang, thế nào là hàng cao cấp… Tuy nhiên có một khác biệt rất lớn, đó là châu Âu, mà đứng đầu là Pháp và Ý đã tạo nên được cả một mảng công nghiệp hạng sang uy tín và được cả thế giới ưa chuộng. Đó là nhờ vào chính sách quảng bá rất mạnh, qua các tổ chức tập hợp các nhà sản xuất hàng cao cấp. Ở Pháp thì có Comité Colbert, Ý thì có quỹ Antagalma. Rất nhiều những nhãn hiệu nổi tiếng của Pháp, của Ý lừng danh trên thế giới. Hiện tại thị trường chính trong lĩnh vực này đang nằm ở châu Á, bắc Mỹ. Tương lai có phần nghiêng nhiều hơn nữa về châu Á ».
Trung Quốc, « el dorado » của các nhà thời trang Pháp
Cho đến năm 2013 nhu cầu tiêu thụ hàng hạng sang của Trung Quốc tăng đều đặn hơn 10 % một năm, trước khi bứt phá với kỷ lục 37 % trong năm 2019. Chẳng ngờ trong thời gian Trung Quốc đóng cửa để chống dịch, năm 2020 vào lúc mà kinh tế toàn cầu lao đao, châu Âu và Hoa Kỳ, và toàn châu Á bị phong tỏa thì người Trung Quốc tiếp tục mua sắm hàng cao cấp. Tăng trưởng trong lĩnh vực này tại Trung Quốc là 46-47 % trong một năm.
Trên sàn chứng khoán Paris, trong năm 2020-2021 cổ phần của Hermès tăng 37 %, của LVHM tăng 32 %.
Cựu giáo sư trường cao đẳng kinh doan HEC của Pháp, Jean-Noel Kapferer trên đài truyền hình France24 giải thích hiện tượng này như sau : do Trung Quốc đóng cửa chống dịch, như tất cả mọi người, tầng lớp giàu có tại Trung Quốc bị cấm đi lại, cấm du lịch trong nước bị cấm ra nước ngoài, mọi thú tiêu khiển ở những nơi công cộng đều phải đóng cửa… niềm an ủi của tầng lớp trung lưu trở lên trong xã hội Trung Quốc là mua hàng trên mạng với khuynh hướng dùng hàng tốt. Một nghiên cứu sau dịch Covid-19 cho thấy có đến 50 % người Trung Quốc có nhu cầu mua hàng xa xỉ.
Martin Meunier, sáng lập viên hãng Valet de Pique chuyên sản xuất túi xách tay bằng da ngạc nhiên là ngay sau đại dịch, đơn đặt hàng trong hãng ông điều hành đã được nhân lên gấp ba.
Bénédicte Sabadie đặc trách về lĩnh vực hàng hạng sang thuộc cơ quan tư vấ Deloitte không ngạc nhiên trước hiện tượng này :
« Ngành thời trang hạng sang là một lĩnh vực đặc biệt luôn có sức kháng cự rất tốt và cũng có khả năng bật dậy rất nhanh để thoát khỏi khủng hoảng. Đây là một khuynh hướng lâu bền, bởi vì thời nào cũng vậy và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, người ta vẫn có nhu cầu tiêu thụ hàng cao cấp »
Trong chiều hướng đó, tập đoàn Pháp LVMH thông báo tuyển dụng thêm 7.500 nhân viên. LVMH hiện diện trong 6 lĩnh vực khác nhau như ngành thời trang, mỹ phẩm, kim hoàn, rượu champagne, rượu mạnh… và bao gồm các nhãn hiệu nổi tiếng như Louis Vuitton, Dior, Givenchy, Kenzo, Moët & Chandon, Henessy…
Cũng trong thời gian 2020 và cho đến tận hiện tại, tỷ phú Pháp Bernard Arnaud qua mặt các đại gia người Mỹ như Elon Musk, Jeff Bezos hay Mark Zuckerberg… để trở thành người giàu nhất hành tinh. Tài sản cá nhân của ông lên tới 207 tỷ euro và cũng Bernard Arnaud đứng đầu một đại tập đoàn có trị giá hơn 400 tỷ, mà gần một nửa trong đó là vốn của gia đình ông.
Vào lúc các nhà đầu tư và doanh nhân thế giới thất vọng là kinh tế Trung Quốc không phục hồi nhanh và mạnh như mong đợi thì riêng ngành công nghiệp hạng sang vẫn được bình an, ít ra là cho đến cuối 2023.
Nhưng gió đã xoay chiều : trong hai quý đầu năm 2024, thị trường Trung Quốc có khuynh hướng tăng chậm lại. Lãi của LVMH trong quý 1/2024 giảm 14 % so với 3 tháng trước đó.
Báo cáo của Bain&Company được công bố mùa xuân vừa qua nêu bật một số lý do như sau : Bên cạnh hiện tượng khủng hoảng địa ốc tại Hoa Lục kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên vượt ngưỡng 20 %, thì chính sách « đả hổ diệt ruồi » chống tham nhũng của ông Tập Cận Bình ngày càng khiến các đại gia Trung Quốc lo sợ. Không còn mấy ai dám mạnh dạn mua hàng đắt tiền để khoe khoang hay quà cáp.
Đầu năm nay, doanh thu của LVMH tại châu Á, ngoại trừ Nhật Bản, giảm 6 %. Trong trường hợp khả quan nhất, nhu cầu tiêu thụ hàng hạng sang ở Trung Quốc trong năm 2024 cũng chỉ tăng 4 % là cùng. Đã xa rồi thời kỳ tiêu thụ ở Hoa Lục và Hồng Kông tăng 30-40 % một năm.
Dân Trung Quốc nghèo đi hơn
Một thống kê của Trung Quốc cho thấy trong năm 2022 « tầng lớp những người cực giàu ở Trung Quốc - với tài sản hơn 30 triệu đô la - bị giảm đi mất 7 % » so với hồi trước đại dịch Covid. Đáng lo ngại hơn nữa, « đây mới chỉ là điểm khởi đầu » khi mà người dân Trung Quốc có thói quen đầu tư 70 % của cải vào địa ốc và đang trông thấy tài sản của họ « tan như tuyết dưới ánh nắng mặt trời ».
Thêm vào đó, chỉ số chứng khoán trên các thị trường ở Thượng Hải, Thâm Quyến hay Hồng Kông đều giảm mạnh từ hơn một năm nay.Trong hoàn cảnh đó những thành phần có tiền, đã tìm cách đầu tư ở nước ngoài, với những điểm đến dễ dàng như Singapore và trong một chừng mực nào đó là tại Nhật Bản.
Tuy nhiên sự đình đốn của nền kinh tế số 2 toàn cầu cũng như chính sách kinh tế của Trung Quốc không giải thích tất cả những khó khăn mà nhiều hãng hiệu hạng sang của Pháp đang vấp phải.
Một nền công nghiệp hạng sang Trung Quốc đang hình thành
Bruno Lavagna, nói đến một sự cạnh tranh trực tiếp xuất phát từ những nhãn hiệu de luxe made in China. Ngành công nghiệp hạng sang không là một ngoại lệ : người Trung Quốc học hỏi rất nhanh, nhất là khi lại được chính những chuyên gia về marketing hàng đầu của Pháp và châu Âu tiếp sức :
« Các hãng Trung Quốc dựa vào những bí quyết của châu Âu và mời một chuyên gia trong ngành thời trang hạng sang của châu Âu về điều hành tập đoàn. Thí dụ như trong trường hợp của Shang Xia, nhãn hiệu này nổi lên từ 2007 và là một phiên bản Trung Quốc của nhà thời trang rất cao cấp Hermès. 90 % vốn của Shang Xia thuộc về Hermès, bởi tập đoàn thời trang hạng sang này của Pháp ý thức rằng túi xách tay kiểu Kelly hay Birkin (mang tên những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng người Mỹ và người Anh) rất được khách hàng Trung Quốc yêu thích, nhưng tại sao lại không nghĩ đến việc cung cấp những sản phẩm hạng sang 100 % mang sắc mầu Trung Quốc ? Chính vì thế mà Hermès nảy sinh ý tưởng đưa những nét đặc thù của Trung Quốc vào thời trang, thí dụ như khai thác cổ áo vét kiểu Mao, hay đồ gốm Trung Quốc… Trái lại thì cũng có những nhãn hiệu là do Trung Quốc phát triển. Tôi muốn nói đến Icicle. Đây là một thương hiệu 100 % vốn Trung Quốc, do các nhà tạo mẫu và thời trang Trung Quốc điều hành với khẩu hiệu là Made in Earth. Họ dùng toàn những chất liệu tự nhiên. Nhưng họ cũng cần có một nhà lãnh đạo người châu Âu để vươn ra quốc tế và thậm chí là nhắm tới các thị trường phương Tây. Đừng quên rằng Icicle có cửa hàng ở đại lộ George V, một trong những trục lộ sang trọng nhất ở khu tam giác vàng Paris. Nhãn hiệu Trung Quốc này cần cắm rễ vào châu Âu ».
Trong số những tập đoàn hạng sang của Trung Quốc bắt đầu nổi lên, thì phải kể đến hai nhà kim hoàn Chow Tai Fook và Queelin, đến hãng sản xuất rượu quý Moutai với trị giá của tập đoàn nay đã lên tới 12 tỷ đô la, tương đương với hãng xe hơi Đức BMW. Nhãn hiệu thời trang Icicle thì một chiếc áo thun rất tầm thường hay một chiếc ví da khá nhỏ được bán ở Paris với giá vài ngàn euro, đắt không kém hàng Louis Vuitton hay Céline.
Cũng ông Lavagna, tác giả cuốn sách nói về yếu tố địa chính trị trong lĩnh vực hàng hạng sang, cho rằng các mặt hàng xa xỉ là một công cụ ngoại giao mà bất kỳ một quốc gia nào cũng có thể dùng để gây sức ép hay để mặc cả với các đối tác.
Tháng 5/2024 khi chủ tịch Tập Cận Bình công du nước Pháp, mọi chú ý đã hướng về thông báo của Bắc Kinh về việc Trung Quốc có đánh thuế nhắm vào rượu mạnh cognac và armagnac của Pháp hay không. Đây là một đòn răn đe và trừng phạt Paris, đầu tàu của Liên Hiệp Châu Âu, nếu Bruxelles mạnh tay đánh thuế ô tô điện của Trung Quốc nhập cảng vào thị trường chung châu Âu.
Tue, 27 Aug 2024 - 186 - Anh Quốc tìm cách hàn gắn quan hệ với Liên Hiệp Châu Âu sau Brexit
Lên cầm quyền hôm 05/07/20214, thủ tướng Keir Starmer bên Công Đảng cam kết đưa đất nước ra khỏi 14 năm « hỗn loạn » dưới các chính quyền của phe bảo thủ. Một trong những việc cần làm đầu tiên là sưởi ấm quan hệ với Liên Hiệp Châu Âu, đặc biệt là với Pháp sau nhiều năm nguội lạnh vì Brexit.
Sang Washington dự thượng đỉnh NATO, tân thủ tướng Anh trấn an Hoa Kỳ là Luân Đôn khởi động lại bang giao với Liên Hiệp Châu Âu trong bối cảnh an ninh toàn châu Âu bị Nga đe dọa từ khi khởi động chiến tranh Ukraina. Ngày 18/07/2024, trong cương vị chủ nhà, trước khi tiếp lãnh đạo gần 40 quốc gia châu Âu đến Luân Đôn dự hội nghị Cộng Đồng Chính Trị Châu Âu, cũng ôngg Starmer tiếp riêng tổng thống Pháp, Emmanuel Macron. Luân Đôn và Paris nhất trí tăng cường các mối hợp tác trên những hồ sơ then chốt. Đứng đầu trong số đó là chính sách phòng thủ và hồ sơ gai góc về nhập cư.
Sang trang Brexit vì quyền lợi của nước Anh
Vào lúc công luận Anh càng lúc càng có vẻ ân hận đã rời xa Liên Âu, thủ tướng Starmer báo trước ông không có ý định trở lại với mái nhà chung châu Âu, với thị trường chung châu Âu và liên minh thuế quan châu Âu. Nhưng 4 năm sau khi chính thức « bước ra khỏi » Liên Hiệp Châu Âu, khối 27 thành viên vẫn là đối tác thương mại quan trọng nhất của Anh Quốc, chiếm gần 50 % tổng trao đổi mậu dịch của nước Anh với phần còn lại của thế giới. Luân Đôn khép lại thời kỳ sóng gió và chấm dứt giai đoạn đối đầu với Bruxelles để hướng tới một mối bang giao hài hòa hơn, có lợi cho cả đôi bên. Trước hết là giảm nhẹ bớt một số những thủ tục cản trở giao thương giữa Anh và Liên Âu.
Thông tín viên Nguyễn Giang từng làm việc tại Luân Đôn và hiện đang công tác ở Singapore trước hết cho biết cụ thể là quá trình Brexit đã đặt ra những khó khăn nào cho các doanh
Nguyễn Giang : « Sau khi Anh chính thức ra khỏi Liên minh thuế quan với Liên hiệp châu Âu (EU) từ ngày đầu tiên của năm 2021 -một trong nhiều điều kiện phải thực hiện sau thỏa thuận ly hôn Brexit – các tác động của quá trình này về thương mại, nguồn lao động và đầu tư mới bắt đầu có tác động xấu tới các ngành kinh tế Anh. Tuy thế, không dễ đánh giá riêng tác động của việc mất đi nguồn trao đổi mậu dịch 550 tỷ bảng Anh, bằng 670,5 tỷ euro một năm, của Anh với Liên Âu, vì ngay sau đó thì còn đại dịch Covid và khủng hoảng năng lượng toàn châu Âu sau cuộc chiến Nga xâm lăng Ukraine đầu năm 2022.
Tác động xấu thứ nhất là nguồn đầu tư vào Anh. Theo viện nghiên cứuUK in a Changing Europe, so với năm 2016, đầu tư nước ngoài vào Anh đángnhẽra phải cao hơn thời điểm hai năm sau Brexit là 25%. Thế nhưng nó đã không cao như vậy và tỷ phú Anh, Sir Richard Branson cho rằng các giấy tờ, quy định mới sau Brexit “cản trở đầu tư nước ngoài”, dù quan điểm của ông bị một số thinktank khác nói là không đúng.
Tác động trực tiếp nữa của Brexit là nguồn lao động và nhân lực có tay nghề từLiên Hiệp Châu Âugiảm hẳn đi, thấy rõ trong dịch vụ y tế công, các ngành xây dựng và buôn bán lẻ. Trung tâm nghiên cứu và tư vấn mang tênCentre for European Refor” nêu con số thị trường lao động Anh thiếu đi 330 nghìn nhân công từ EU sau hai năm thực hiện Brexit ».
Cái bóng của EU vẫn quá lớn
RFI : Nhìn rộng ra hơn thì sau gần 4 năm thực sự có hiệu lực, việc ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu có lợi gì không cho kinh tế của Anh hay không. Đồng thời vì không còn thị trường 27 nước trong khối này nữa nên Luân Đôn đã mở rộng quan hệ thương mại với các đối khác nhưng hiệu quả đến đâu thưa anh ?
Nguyễn Giang : « Tác động bao trùm của Brexit là sự ngưng trệ về mậu dịch quốc tế ngay sau khi thực hiện Brexit từ đầu 2021. Anh ký liên tiếp gần 80 hiệp định thương mại tự do với các nước khác, để bù vào lỗ hổng mậu dịch với EU nhưng đa số các hiệp định mới này, như với Việt Nam, chỉ là bản sao của hiệp định Anh có với các nước kia khi còn là thành viênLiên Âu, chứ không đem lại ưu thế gì mới.
Quan trọng nhất là Hoa Kỳ không ký hiệp định tự do mậu dịch với Anh, còn các hiệp định với Úc và New Zealand chỉ bù lại không đáng kể phần mất đi từ quan hệ thương mại với láng giềng lớn là Liên Âu. Hai hiệp định này không chỉ cần nhiều năm mới phát huy tác dụng tốt cho kinh tế Anh, mà còn tác động xấu ngay lập tức là đe dọa nhà nông Anh bán các hàng tương tự với hàng Úc và New Zealand ra thị trường, ví dụ thịt cừu, sữa bò. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Anh đều bối rối với các thay đổi về luật lệ, giấy tờ xuất nhập khẩu trong hoàn cảnh mới.
Tuy thế, ngoài mối lợi cho các nhà xuất khẩu nông sản Anh, trị giá chừng 5 tỷ bảng (5,88 tỷ euro), theo một đánh giá của giới kinh tế Anh mà BBC đăng tải hồi tháng 1/2023, thì nhìn chung bài toán Brexit gây thiệt hại cho nước này ».
EU không còn là một đối thủ
RFI : Anh Quốc vừa có chính phủ mới, Công Đảng trở lại cầm quyền sau 14 năm. Tân thủ tướng Keir Starmer đã tổ chức hội nghị Cộng Đồng Chính Trị Châu Âu ngay trong những ngày đầu nhiệm kỳ. Đó là dấu hiệu Luân Đôn muốn thắt chặt trở lại quan hệ với châu lục với Liên Hiệp Châu Âu nói riêng từ sau Brexit trong nhiều lĩnh vực chứ không chỉ riêng gì vế kinh tế và thương mại.
Nguyễn Giang : « Chính phủ của Sir Keir Starmer đã làm được một việc là thay đổi ngôn từ về EU, từ chỗ Anh coi EU như đối thủ xấu xa thời đảng Bảo thủ cầm quyền, tới chỗLuân Đônnhìn nhận thực tiễn về Liên Âu, bỏ cách ứng xử mang tính đối đầu.
Tuy thế, chưa có nhiều chính sách cụ thể của tân chính phủ Anh về quan hệ vớiEU. Trong cương lĩnh tranh cử của Công đảng có ghi mục tiêu là làm sao Anh giảm nhẹ việc kiểm soát biên giới về thuế quan cho hàng thực phẩm, nhằm giúp giảm giá cả hàng ăn, đồ uống từ EUxuất khẩu vào Anh Quốctăng lên. Trên thực tế thì chi phí thuế quan đã khiến các mặt hàng này tăng 6% so với giai đoạn trước Covid nhưng cũng khó đánh giá cụ thể là vì thương mại với EU bị gián đoạn bởi Brexit, hay vì lạm phát tại Anh từ 2022 sang 2023 tăng vọt do giá xăng dầu quốc tế tăng.
Công đảng cũng muốn giải quyết các việc nhỏ, đỡ cho các nghệ sĩ Anh đi trình diễn ở EU phải xin nhiều giấy phép, hay mong có thừa nhận song phương về bằng cấp, về quy trình kiểm tra thú y, về miễn visa ngắn hạn cho các chuyến học sinh dã ngoại hai bên, tức là những điều không quá quan trọng.
Điều cần làm nhất là làm sao đặt Anh vào một quan hệ thương mại tương đồng nhất có thể về các tiêu chuẩn, thủ tục xuất nhập khẩu với EU, nhưng quan chức EU chưa ngỏ ý sẵn sàng về một quy chế đặt thù nào cho Anh cả.
Tính đến tháng 7 năm nay, Anh chưa đả động gì về chuyện có mở lại, xem xét thỏa thuận mậu dịch với EU (UK-EU Trade Cooperation Agreement) hay là không. Hai bên cũng chưa thể nào xem xét việc này khiLiên Hiệp Châu Âusau bầu cử Nghị viện chưa chọn ra tân lãnh đạo mảng thương mại. Và giả sử hai bên có đồng ý xem xét thỏa thuận thương mại trụ cột của Brexit này thì đàm phán sẽ phải kéo dài ít nhất tới 2026.
Trước mắt, Anh nhấn mạnh vào việc thiết lập một cơ chế hợp tác chặt về an ninh- quốc phòng với EU, theo lời tân Bộ trưởng Ngoại giao David Lamy trong chuyến thăm châu Âu tháng 7 vừa qua. Ông Lamy cũng nói hợp tác tạo niềm tin trong mảng quốc phòng, rồi mảng năng lượng, sẽ tạo đà cho các cuộc nói chuyện tiếp. Về hợp tác giáo dục, trước khi Công đảng lên cầm quyền, Anh và EU đã ký thỏa thuận tái hợp tác đầu tư khoa học mang tên Horizon (Chân Trời) trị giá 95,5 tỷ euro, có hiệu lực tới 2027 để các viện nghiên cứu, các đại học lớn Anh-EU trao đổi và cùng đầu tư vào nghiên cứu. Nay, Anh hy vọng chương trình trao đổi sinh viên Erasmus sẽ được đem ra bàn thảo vào năm 2025, thậm chí phục hồi. Thế nhưng các nước thành viên của Liên hiệp Vương quốc Anh lại có các ý tưởng riêng. Xứ Wales muốn có chương trình mang tên Taith thay cho Erasmus, Scotland có tính toán khác và ở xứ Anh có dự án gọi là Erasmus Plus Alliance nhưng chỉ mang tính vận động cho trao đổi sinh viên với EU, không phải cơ quan chính phủ. Bắc Ireland thì trên thực tế vẫn đang hưởng quy chế của Erasmus cho Cộng hòa Ireland trên cùng hòn đảo nên không phải lo chuyện này ».
« Reset » quan hệ với Bruxelles cả về kinh tế thương mại để giảm bớt căng thẳng về lạm phát cho người dân Anh ; sưởi ấm quan hệ với Liên Âu và nhất là với Pháp để ngăn chận các làn sóng nhập cư trái phép vào Anh Quốc, vào lúc mà chủ đề này nuôi dưỡng các phong trào cực hữu bài ngoại trên đất Anh ; khởi động lại quan hệ với các đối tác châu Âu trong bối cảnh an ninh của châu lục này đang bị đe dọa vì cuộc chiến Ukraina : Đó là những mục tiêu mà thủ tướng Keir Starmer đang nhắm tới trong 100 ngày đầu nhiệm kỳ.
Tue, 20 Aug 2024 - 185 - Công nghiệp quốc phòng : Pháp đi tìm một chiến lược mới để giữ vị thế số 2
Ngành công nghiệp quốc phòng Pháp đang thuận buồm xuôi gió. Với nhiều lợi thế, các nhà sản xuất của Pháp đang dẫn đầu cuộc đua tại châu Âu nhưng còn nhiều thách thức để giữ được vị trí « số 2 » trong số các nhà xuất khẩu vũ khí cho thế giới.
Theo báo cáo của Viện Nghiên Cứu Hòa Bình Bình Quốc Tế SIPRI công bố tháng 3/2024, trong giai đoạn 2019-2023, Pháp thay thế Nga để trở thành nhà xuất khẩu vũ khí thứ nhì trên thế giới, chiếm 11 % thị phần - nhưng vẫn thua xa Hoa Kỳ (42 %). Trong cùng thời kỳ, khối lượng vũ khí châu Âu mua vào đã tăng lên gần gấp đôi (tăng 94 %) dưới tác động của chiến tranh Ukraina từ đầu 2022. Cũng vì chiến tranh Ukraina mà ngân sách quốc phòng của Pháp tăng mạnh : luật tài chính dành cho các khoản chi tiêu quân sự trong giai đoạn 2024-2030 tăng 22 %, vượt quá 413 tỷ euro. Cũng lần đầu tiên Pháp dành đến đến 2% GDP cho ngân sách quốc Phòng, hưởng ứng kêu gọi của NATO.
Những nỗ lực đầu tư vào công nghiệp quốc phòng của Pháp từ gần ba năm qua đã bắt đầu được trông thấy nhân Hội Chợ Quốc Tế về Quốc Phòng và An Ninh Eurosatory 2024 hồi tháng 6 vừa qua. Trả lời RFI tiếng Việt đại tá Sandoz đã rất hãnh diện giới thiệu lớp xe bọc thép bánh lốp Scorpion đời mới, bắt đầu phục vụ cho bên Bộ Binh, hiện đã có 700 chiếc đang từng bước được triển khai.
« Thế hệ xe thiết giáp đời mới được cải thiện về mặt lưu động, về hệ thống bọc thép, khả năng can thiệp tinh tế và sắc bén hơn. Chúng được trang bị những công cụ kết nối để có thể hợp tác và chia sẻ thông tin gần như trực tiếp với các xe đang thi hành cùng một nhiệm vụ. (…) Trong lớp Scorpion, có các loại Griffon, Serval và Jaguar : Griffon chủ yếu được dùng trong công tác vận chuyển quân và để quan sát. Chúng được trang bị pháo cối có tầm bắn đến gần 10 km. Thiết giáp Serval gần tương đương với dòng Griffon nhưng tương đối nhẹ hơn một chút và thường được dùng trong các đơn vị pháo binh, bên công binh và cả ở khâu chỉ huy. Cuối cùng, dòng Jaguar có trang bị hệ thống súng đa nòng 40 mm. Cũng từ thiết giáp Jaguar có thể phóng đi tên lửa nhắm tới các mục tiêu ở cách xa 4 km »
Khi chiến tranh lạnh kết thúc với việc bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 châu Âu tưởng chừng không còn cần đầu tư quá nhiều cho lĩnh vực quân sự. Suốt 20 năm đầu thế kỷ 21, các cuộc xung đột diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, những vụ tấn công khủng bố ngay trên châu lục cũng không làm các nhà cầm quyền của châu Âu nao núng.
Trái hẳn với Hoa Kỳ hay Trung Quốc, nhiều thành viên trong Liên Hiệp Châu Âu vẫn tiếp tục cắt giảm ngân sách quốc phòng. Năm 2016 khi Donald Trump lên cầm quyền, dọa rút Mỹ ra khỏi NATO, đòi các thành viên trong Liên Minh Bắc Đại Tây Dương tăng ngân sách phòng thủ. Kêu gọi của tổng thống Pháp Emmanuel Macron xây dựng một « chính sách phòng thủ chung châu Âu » từ 2017 không được một ai hưởng ứng.
Một nền kinh tế phục vụ chiến tranh ?
Phải đợi đến tháng 2/2022 Nga đưa quân xâm chiếm Ukraina, chiến tranh diễn ra ngay sát cạnh cửa ngõ Liên Hiệp Châu Âu, căng thẳng giữa Matxcơva với NATO không ngừng gia tăng, Paris lại lên tuyến đầu cho rằng đã đến lúc châu Âu cần huy động các nguồn lực kinh tế chuẩn bị đối phó với chiến tranh. Emmanuel Macron nói đến một nền « kinh tế chiến tranh ». Trả lời đài truyền hình France 24 tướng Patrick Dutartre, cựu phi công Không Quân Pháp, trước hết giải thích thế nào là khái niệm « một nền kinh tế chiến tranh »
« Đây trước hết là việc tập hợp các doanh nghiệp trong lĩnh vực quốc phòng, bao gồm luôn cả chính sách khuyến khích các công ty của Pháp quay trở lại nguyên quán. Tạo điều kiện để sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự với những khối lượng lớn, tức là sản xuất nhiều hơn, nhanh hơn và vẫn phải chú trọng đến chất lượng cao. Cho đến hiện tại, Pháp không thể sản xuất nhiều nhưng hàng Pháp luôn được đánh giá cao và rất được ưa chuộng. Các đối tác của chúng tôi, nhất là Ukraina, rất bằng lòng khi mua vũ khí của Pháp ».
Trước mắt, sau khi chuyển giao vũ khí cho Ukraina từ đầu năm 2022 Pháp cần « tạo dựng lại » các kho vũ khí, đạn dược đã vơi đi, cần sản xuất nhiều hơn các phụ tùng sử dụng trong ngành công nghiệp quốc phòng. Tuy nhiên các chuyên gia về quân sự cũng lưu ý rằng, trong trường hợp hiện tại, nói rằng đặt nước Pháp trong tình trạng của một nền kinh tế chiến tranh là không chính xác.
Không thể nói tới một nền kinh tế chiến tranh với 2 % GDP dành cho ngân sách quốc phòng.
Bởi thứ nhất Pháp không trực tiếp phải đối mặt với một cuộc « xung đột vũ trang ở cường độ cao ». Paris yểm trợ Kiev về tài chính, về quân sự, đào tạo cho các quân nhân Ukraina, cung cấp vũ khí đủ loại giúp Ukraina giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ nhưng Pháp không trực tiếp tham gia vào cuộc chiến mà ông Vladimir Putin đang tiến hành.
Điểm quan trọng thứ nhì là một nền « kinh tế chiến tranh » đòi hỏi cả một sự tổ chức lại trong xã hội và các hoạt động kinh tế chỉ để phục vụ mục tiêu quân sự. Điều đó cũng có nghĩa là các nhu cầu tiêu thụ trong cuộc sống hàng ngày của người dân bị đẩy vào hàng thứ yếu. Hiện tại, kịch bản này không xảy ra.
Lý do thứ ba chưa thể nói là Pháp đã hay đang tiến tới một nền kinh tế chiến tranh do tỷ lệ GDP huy động vì mục tiêu phòng thủ vẫn còn rất thấp. Đành rằng Paris tăng 15 % ngân sách quốc phòng, nhưng trước đó, « trong gần 60 năm liên tiếp, Pháp đã cắt giảm chi phí quân sự ». Cho dù hy sinh nhiều khoản chi tiêu khác để tăng cường khả năng phòng thủ, nhưng mãi đến tháng 4/2024 ngân sách quân sự của Pháp mới đạt ngưỡng 2 % GDP.
Để so sánh, trong Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918) Paris huy động từ 15 đến 20 % tổng sản phẩm nội địa để tài trợ chiến tranh. Trong Thế Chiến Thứ Hai (1939-1945) nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ chiếm tới 40 % GDP, còn đối với Đức là 75 %. Hiện tại chỉ có Ukraina phải huy động 1/3 các nguồn lực kinh tế để đương đầu với đội quân của Nga. Trong lúc bản thân Matxcơva cũng chỉ dành có 6 % GDP để tài trợ « chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraina ».
Khủng hoảng do lớn quá nhanh ?
Từ khi Ukraina bị Nga xâm chiếm, viện trợ quân sự của Paris cho chính quyền Kiev lên tới 2,7 tỷ euro, thấp hơn rất nhiều so với Mỹ nhưng không thể phủ nhận là các nhà sản xuất của Pháp nói riêng, của châu Âu nói chung, hoạt động « với công suất tối đa ». Mặt trái của đồng tiền là 30 % các nhà máy trong ngành công nghiệp quốc phòng của Pháp gặp khó khăn trong việc mua nguyên và nhiên liệu, đặc biệt là mua kim loại hiếm và phụ tùng điện tử. Không ít trong số này lo ngại chuỗi sản xuất bị gián đoạn vì thiếu hàng.
Nhà báo Anne Bauer của tờ Les Echos, chuyên theo dõi các hồ sơ về công nghiệp quốc phòng lưu ý : để hoàn thành mục tiêu « huy động kinh tế phục vụ cho chiến tranh » các tập đoàn sản xuất vũ khí của Pháp cần vượt qua một số điều kiện tiên quyết :
« Để sản xuất nhiều và nhanh đòi hỏi một số điều kiện : một là ngành công nghiệp quốc phòng của Pháp phải có đủ dự trữ nguyên liệu, hai là phải xây dựng lại các nhà máy, các chuỗi lắp ráp để sản xuất theo số nhiều và ba là phải nhanh chóng tuyển dụng thêm nhân viên, thậm chí là sản xuất ngày đêm với ba ê-kíp và mỗi nhóm làm việc 8 tiếng một ngày. Công suất của tập đoàn Nexter chế tạo hệ thống pháo tự hành Caesar đã được nhân lên gấp đôi và sắp tới là gấp 3 hay gấp 4 từ nay đến cuối năm. Điều đó đòi hỏi tập đoàn này phải đào tạo nhân công … và đó là cả một hệ thống mà chúng ta cần phải khởi động lại ».
Nền tảng vững chắc nhưng Pháp vẫn là một chú lùn
Không phải tình cờ mà Pháp vươn lên hàng thứ 4, rồi thứ 3 và tạm thời là thứ 2 thế giới trong số các nguồn xuất khẩu vũ khí của thế giới. Các chuyên gia nói đến một « mạng lưới công nghiệp vững chắc » với 9 đại tập đoàn như Airbus Defense, Thales, Nexter hay Arquus, Dassault … với trên dưới 4.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong số đó có đến hơn ¼ thuộc diện « chiến lược ». Hơn 210.000 nhân viên Pháp làm việc trong ngành quốc phòng, doanh thu trong ngành lên tới hơn 30 tỷ euro, trong đó 12 tỷ là nhờ vào xuất khẩu.
Nhưng nếu như so sánh với cỗ máy sản xuất vũ khí và thiết bị quân sự của Hoa Kỳ thì Pháp vẫn là một chú lùn. Vào lúc Hoa Kỳ chiếm 42 % thị trường trên thế giới, Pháp đang hoạt động hết công sức mới chỉ dành được có 11 % thị phần quốc tế, mà đó là nhờ Nga vắng mặt từ khi bị quốc tế trừng phạt và vũ khí của Nga ưu tiên được điều sang chiến trường Ukraina.
Về phía Trung Quốc thì nước này sản xuất trước hết là để phục vụ nhu cầu nội địa và mới chỉ rụt rè vươn ra thế giới và hàng « made in China » chưa tạo được uy tín lớn với « bên ngoài ». Do vậy theo tướng Patrick Dutartre nền công nghiệp quốc phòng của Pháp là đầu tàu của châu Âu nhưng cần được 26 thành viên khác trong Liên Âu tiếp sức.
« Thứ nhất, Pháp phải là một con chim đầu đàn trong Liên Hiệp Châu Âu. Thứ hai là toàn khối này cũng phải huy động lực lượng để nâng cao khả năng phòng thủ, để đẩy mạnh cỗ máy công nghiệp phòng. Khả năng của các nhà sản xuất vũ khí châu Âu thường bị đánh giá không đúng mức. Đừng quên răng Liên Âu là một khối 27 quốc gia với 550 triệu dân, trong lúc Nga chỉ có 145 triệu và GDP của Liên Âu lớn gấp 7 lần so với của nước Nga. Liên Hiệp Châu Âu phải nỗ lực để có được một nền công nghiệp quốc phòng có trọng lượng và khả năng phòng thủ của khối này phải đủ sức trong trường hợp Liên Âu bị đẩy vào một cuộc xung đột ở cường độ cao. Đương nhiên, không ai mong muốn chiến tranh cả ».
Thách thức của những cuộc chiến trong tương lai
Thêm vào đó, vị thế của ngành công nghiệp quốc phòng Pháp trên thị trường quốc tế luôn bị đe dọa vì uy tín của các nhà sản xuất Nga vẫn còn rất lớn, vì những tiến bộ về công nghệ chế tạo vũ khí của Hàn Quốc, vì thái độ mềm mỏng của các nhà đàm phán xứ kim chi.
Hơn nữa, các cuộc xung đột hiện nay từ ở Gaza đến Ukraina đều cho thấy đấy cũng là những cuộc chiến của công nghệ cao, của công nghệ kỹ thuật số, của trí tuệ nhân tạo. Chiến tranh trong hiện tại và tương lai là những cuộc chiến tranh về cyber, là những xung đột diễn ra trên bộ, trên không, trên biển và dưới lòng biển (các quang, ống dẫn khí đốt ...)
Do vậy bên cạnh việc chế tạo chiến xa, chiến đấu cơ …các nhà sản xuất của Pháp đã tập trung phát triển drone, sử dụng công nghệ kết nối trong công tác dò mìn, sử dụng những thiết bị càng lúc càng nhỏ trong công tác thu thập thông tin … Đó là những khoản đầu tư để « chuẩn bị đối phó với một cuộc chiến trong tương lai », càng lúc càng tinh vi.
Tue, 13 Aug 2024 - 184 - Bế tắc trong « Tầm nhìn mới phát triển kinh tế » Trung Quốc
Kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3, Khóa 20 của đảng Cộng Sản Trung Quốc, một thông cáo và một bản nghị quyết định hướng kinh tế cho tới năm 2029 được công bố ngay sau đó. Cả hai cùng « rỗng tuếch » và thể hiện một sự tê liệt trong nội bộ Đảng. Trên đây là nhận định của chuyên gia về Trung Quốc, Alex Payette, đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius, trụ sở tại Montréal, Canada về « Tầm nhìn mới phát triển kinh tế » cho giai đoạn 5 năm sắp tới.
Những hứa hẹn « cải tổ », « mở cửa và phát triển kinh bằng những phát minh về công nghệ cao » của Trung Quốc còn giá trị gì nữa hay không ? Tuần báo Anh The Economist (25/07/2024) nhắc lại, từ khi lên cầm quyền cuối 2012, ông Tập Cận Bình luôn hứa hẹn « để thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các nguồn lực » và mở rộng vị trí cho các công ty tư nhân vào những lĩnh vực vốn vẫn được đặt dưới sự thống trị của các doanh nghiệp nhà nước. Hơn một chục năm sau, toàn cảnh kinh tế Trung Quốc đang ảm đạm.
Kinh tế ảm đạm
Theo các thống kê công bố hôm 15/07/2024, đúng ngày khai mạc Hội Nghị, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ đạt 4,7 % trong một năm, thấp hơn so với chỉ tiêu 5 %. Trong 5 quý liên tiếp, kinh tế nước này bị giảm phát và điều ấy phản ánh tiêu thụ nội địa bị đóng băng. Khối lượng xe hơi bán ra trong 6 tháng đầu năm 2024 giảm 6 % so với cùng thời kỳ năm ngoái, trong lúc ngành địa ốc lún sâu thêm vào khủng hoảng. Các doanh nghiệp và các nhà đầu tư tại Hoa Lục trong trạng thái « chờ đợi », hoãn các kế hoạch mua thêm trang thiết bị sản xuất và ngừng tuyển dụng thêm nhân viên.
Trong bối cảnh này, nhiều người chờ đợi, giới lãnh đạo ở Bắc Kinh đề ra những biện pháp cụ thể nhanh chóng khởi động lãi cỗ máy kinh tế. Thế nhưng thông cáo tổng kết nội dung 4 ngày họp và văn bản mang tên « Quyết định của Ban Chấp Hành Trung Ương về việc sâu sắc hóa toàn diện chính sách cải tổ và thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa theo kiểu của Trung Quốc » gây nhiều thất vọng.
Bản nghị quyết kết thúc Hội nghị gồm 60 phần với danh sách tổng cộng 300 đề xuất nhằm cải thiện đời sống kinh tế và xã hội cho đất nước.
Trả lời RFI Việt ngữ, chuyên gia về Trung Quốc, Alex Payette, đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius, trụ sở tại Montréal, Canada nói đến những khẩu hiệu trống rỗng : « đẩy mạnh tiến trình cải tổ », « nâng cao tiêu thụ nội địa », « phát huy tốt hơn vai trò của cơ chế thị trường »tạo môi trường « công bằng và có sức sống mạnh hơn », « tối ưu hóa năng suất và tối đa hóa hiệu quả phân phối các nguồn lực ».
Alex Payette :« Có một số điểm thú vị. Văn bản này cho thấy giới lãnh đạo ở Bắc Kinh bắt mạch đúng tình hình, họ ý thức là có nhiều việc phải làm và có thiện chí để thay đổi tình thế. Tuy nhiên tất cả chỉ dừng lại ở đó, tức là các giới chức Trung Quốc ghi nhận vấn đề mà không đưa ra bất kỳ một giải pháp nào để khắc phục tình trạng này cả. Điều đó khiến các nhà quan sát thất vọng. Tôi xin đơn cử thí dụ Trung Quốc tuyên bố muốn đẩy mạnh hợp tác với quốc tế, cởi mở hơn để thu hút thêm đầu tư và doanh nhân nước ngoài, Trung Quốc cũng chủ trương đẩy mạnh các phát minh để tạo đà cho tăng trưởng, kích thích tiêu thụ nội địa… Nhưng đó là những mục tiêu được đưa ra sau Hội Nghị Trung Ương lần này, nhưng hoàn toàn không có gì mới mẻ bởi từng được đưa ra từ nhiều năm nay. Trong khi đó kinh tế của Trung Quốc cần có những biện pháp mới để thích nghi với tình huống -mà theo tôi thì nhẽ ra Bắc Kinh cần đổi mới từ 4 hay 5 năm nay chứ không phải đợi đến bây giờ … »
Ưu tiên của Bắc Kinh vẫn là an ninh
Vẫn theo Alex Payette vào lúc kinh tế Trung Quốc đang bị một cuộc khủng hoảng địa ốc, giảm phát, khủng hoảng niềm tin của người tiêu dùng đe dọa thì nghị quyết của Ban Chấp Hành Trung Ương năm nay lại tập trung vào vế « tăng cường an ninh quốc gia »
Alex Payette:«Tôi nghĩ là Trung Quốc cần tạo một lực đẩy cho kinh tế. Bây giờ không phải là lúc để tiếp tục tập trung vào mục tiêu bảo vệ an ninh cho chế độ. Càng chăm lo vào vế an ninh, Trung Quốc càng gây khó khăn cho vế phát triển kinh tế. Hơn nữa Trung Quốc thực sự cần có những cơ cấu vững chắc để thu hút các doanh nhân nước ngoài, khuyến khích họ trở lại Hoa Lục. Bởi vì có như thế Bắc Kinh mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài mạnh dạn trở lại Trung Quốc, mở cơ sở kinh doanh… Chính đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài sẽ kéo lĩnh vực kinh tế tư nhân của Trung Quốc đi lên. Nhờ thế mới hy vọng là Trung Quốc lại có những tập đoàn lớn trỗi dậy, có những Alibaba hay ANT Financial khác nữa… Trong những điều kiện hiện tại không mấy ai muốn lao vào cuộc, mở doanh nghiệp… để rồi một ngày nào đó họ lại bị đưa ra trước vành móng ngựa hay là công ty của họ bị chia năm xẻ bảy…
Kinh tế tư nhân dưới sự kiểm soát của nhà nước
Vẫn đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius trụ sở đặt tại Montréal, ghi nhận bản nghị quyết kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3 của Trung Quốc vừa qua đã dành hẳn 2 chương đề cao vai trò của lĩnh vực kinh tế tư nhân và « quyết tâm hỗ trợ » các doanh nghiệp tư nhân nhưng ngay trong khổ đầu tiên của chương này, Bắc Kinh nhấn mạnh đó phải là một sự « phát triển dưới sự kiểm soát » của Đảng và Nhà nước.
Một điểm đáng chú ý khác là cụm từ « hiện đại hóa » đất nước theo mô hình Trung Quốc cũng đã được nhắc lại hầu như trong mỗi đoạn của văn bản chính thức kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3. The Economistghi nhận một lần nữa giới lãnh đạo ở Bắc Kinh bị mục tiêu phát triển công nghệ và dựa trên « phát minh » để hiện đại hóa cỗ máy kinh tế của nước này ám ảnh. Điều đó phản ánh « suy nghĩ » của ông Tập Cận Bình cho rằngTrung Quốc đang bị một cuộc « cách mạng về công nghệ của thế giới bao vây » và do vậy đảng Cộng Sản dưới sự lãnh đạo của ông phải thoát ra khỏi vòng vây đó.
Theo Alex Payette, đảng Cộng Sản Trung Quốc như vậy muốn kiểm soát tất cả và đối với công luận ở trong và ngoài nước, đây không là một tín hiệu tốt.
Vào lúc mọi người chờ đợi Hội Nghị Trung Ương vừa qua thông báo những biện pháp kích thích tiêu thụ nội địa, ngăn chận hiện tượng giảm phát tai hại, thì tài liệu chính thức chỉ gián tiếp nói đến việc khắc phục hậu quả kèm theo từ khủng hoảng địa ốc, chẳng hạn như cam kết Trung Ương sẽ không ban hành thêm các khoản thuế khóa, tránh gây thêm gánh nặng cho các chính quyền ở cấp địa phương…
Đấu đá nội bộ và« cái Tôi»quá lớn của họ Tập
Về câu hỏi tại sao trước tình hình bị cho là khá cấp bách, Bắc Kinh lại chậm đưa ra những liều thuốc để vực dậy kinh tế, chuyên gia người Canada Alex Payette giải thích đây trước hết là một vấn đề chính trị, và hiện tại ở Trung Quốc, nhân vật quyền lực nhất là ông Tập Cận Bình dường như không có ý định thay đổi đường lối, tức là cần « kiên định không dời khỏi con đường phát triển chính trị chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, kiên trì và hoàn thiện chế độ chính trị căn bản » của quốc gia này.
Alex Payette: « Đúng là Trung Quốc cần đưa ra những biện pháp cụ thể để vực dậy kinh tế nhưng đấy thường là những gì đi ngược lại với ý của ông Tập Cận Bình, thành thử khó để nói đến một chương trình cải tổ, theo mô hình kinh tế theo thị trường… Thay vào đó, giới lãnh đạo ở Bắc Kinh sau Hội Nghị Trung Ương vừa qua có khuynh hướng trở về với thời kỳ của Mao Trạch Đông. Trong lĩnh vực nông nghiệp chẳng hạn, báo cáo kết thúc hội nghị nhấn mạnh đến việc mở rộng vai trò của hợp tác xã, thúc đẩy và khuyến khích các văn phòng quản lý nông nghiệp nỗ lực hơn trong mục tiêu phát triển nông nghiệp Trung Quốc… Làm thế nào để giới tư bản nước ngoài tin tưởng để đầu tư vào Hoa Lục trước những biện pháp phi kinh tế thị trường như vậy ? Các doanh nghiệp nước ngoài thận trọng khi mà Bắc Kinh nói một đàng, làm một nẻo ».
Bản nghị quyết kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3 vừa qua chỉ là một danh sách « những điều cần làm » và thể hiện những mâu thuẫn trong những mục tiêu mà Trung Quốc muốn hướng tới, và đã không trấn an các đối tác kinh tế tại Hoa Lục và các nhà đầu tư nước ngoài, theo Alex Payette, bởi Trung Quốc đang đứng trước « một vấn đề rất lớn » :
Alex Payette : « Đương nhiên là có một sự đấu đá ở bên trong, chính vì thế mà trong tài liệu được công bố sau Hội Nghị Trung Ương vừa qua đã có rất nhiều thứ, liên quan đến rất nhiều chủ đề, bao phủ lên nhiều lĩnh vực. Nhưng không có gì cụ thể cả. Khóa họp vừa rồi chỉ ghi nhận vấn đề, đưa ra những khẩu hiệu chung chung, tản mạn… mà không thể tìm ra được một tiếng nói chung, dù chỉ là trên một vài chủ đề cụ thể. Điều đó chứng tỏ là nội bộ đảng Cộng Sản Trung Quốc có nhiều ý kiến khác nhau và không ai dám lên tiếng vì họ sợ rằng ông Tập Cận Bình chưa sẵn sàng cho một cuộc cải tổ thực sự. Theo tôi thì đảng Cộng Sản Trung Quốc đang bị chia ra thành ba nhóm : nhóm thứ nhất ý thức được là kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn và cần phải điều chỉnh lại chính sách, nhưng số này bất lực vì tiếng nói của họ không được lắng nghe. Nhóm thứ nhì, biết là có vấn đề nhưng không muốn thay đổi và còn nghe ngóng, đón bắt ý kiến chỉ đạo của Tập Cận Bình. Nhóm thứ ba cũng thừa biết là kinh tế đang bị trục trặc nhưng đối với họ thì sự tồn tại của Đảng mới là ưu tiên và họ vẫn tập trung mọi nỗ lực củng cố vị thế của Đảng. Không chắc đây là điều tốt cho kinh tế của Trung Quốc ở thời điểm này ».
Trong một bài tham luận đăng trên báo mạng Asialyst hôm 03/08/2024 Alex Payette nêu lên một điểm thú vị khác liên quan đến cá nhân ông Tập : từ khóa 19 Tập Cận Bình đã muốn gột tẩy tên người tiền nhiệm Đặng Tiểu Bình khỏi hai chữ Cải Tổ. Ông cũng không muốn đi vào sử sách như một người tiếp nối công cuộc cải tổ của họ Đặng mà muốn Tập Cận Bình phải là « trung tâm » của cuộc cải tổ kinh tế, hiện đại hóa đất nước. Do vậy trong tài liệu chính thức của đảng Cộng Sản Trung Quốc được công bố sau Hội Nghị Trung Ương 3, Trung Quốc nói đến tiến trình « Cải tổ của một thời đại mới ».
Kinh tế, ưu tiên số 3 sau chính trị và địa chính trị
Báo Nhật Bản The Diplomate hôm 01/08/2024 cũng nêu bật nhiều lý do khiến mọi người cần thận trọng với những ý định của Trung Quốc sau hội nghị trung tuần tháng 7 vừa rồi : thứ nhất 60 chương và 300 cam kết để cải thiện tình hình kinh tế cho đất nước trong văn bản lần này không có gì mới mẻ so với những cam kết và mục tiêu cũng chính Tập Cận Bình đã đề ra nhân Hội Nghị Trung Ương 3 khóa 18 (năm 2013).
Điểm thứ nhì là văn bản này chỉ đưa ra những đường lối chung chung, những hứa hẹn và cam kết mà không có bất kỳ một điều gì bảo đảm là Trung Quốc thực hiện được một phần những mục tiêu đó trước năm 2029.
Sau cùng văn bản này có đầy những mâu thuẫn khi mà dưới thời đại Tập Cận Bình « cải tổ » và « mở cửa » không thu hẹp ở phạm vi kinh tế mà còn bao hàm cả chủ trương « tăng cường khả năng tự chủ của Trung Quốc trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hay xung đột vũ trang ». Đó mới là mục tiêu chính của Hội Nghị Trung Ương 3 năm nay và trong mục tiêu đó « đại đa số người dân Trung Quốc và các doanh nghiệp tư nhân đừng hy vọng sớm được trông thấy điều kiện của họ được cải thiện ». Nói cách khác kinh tế chỉ đứng hạng thứ ba trong số những ưu tiên của đảng Cộng Sản Trung Quốc, sau những mục tiêu chính trị và địa chính trị.
Tue, 06 Aug 2024 - 183 - "Di sản" kinh tế của Biden có lợi hay không cho Kamala Harris ?
Từ khi thay Joe Biden ra tranh cử tổng thống, Kamala Harris từng bước định hình chính sách kinh tế. Dưới chính quyền Biden, kinh tế Hoa Kỳ đang trong một chu kỳ « thịnh vượng » sau đại dịch Covid, thất nghiệp đang ở mức thấp nhất, nhưng phần lớn trong công luận Mỹ « có cảm tưởng » là tình hình đang xấu đi và tin rằng Donald Trump mới là vị cứu tinh.
Chưa chính thức được đảng Dân Chủ chỉ định ra tranh cử tổng thống, nhưng gần như chắc chắn đương kim phó tổng thống Kamala Harris là người thay Joe Biden lao vào cuộc chạy đua giành chìa khóa Nhà Trắng. Bà sẽ đọ sức với ông Donald Trump bên đảng Cộng Hòa.
« Tất cả tùy thuộc vào thành quả kinh tế », đó là câu nói để đời của James Carville hồi 1992 khi ứng viên tổng thống Bill Clinton bên đảng Dân Chủ bất ngờ đánh bại tổng thống mãn nhiệm, một chính khách dày dặn kinh nghiệm bên đảng Cộng Hòa là George H. Bush, chỉ vì một năm trước bầu cử, thất nghiệp ở Hoa Kỳ đã tăng mạnh. Khẩu hiệu của Carville năm xưa có còn tính thời sự nữa hay không và kinh tế có còn là ưu tiên hàng đầu khi cử tri Mỹ tháng 11/2024 chọn người lãnh đạo đất nước trong nhiệm kỳ 4 năm tới?
Bất mãn vì lạm phát
Nếu tranh cử tổng thống Hoa Kỳ là một cuộc chạy tiếp tức, thì ngày 21/07/2024, ông Biden đã chuyền « tín gậy » lại cho Kamala Harris vào lúc thất nghiệp ở Mỹ đang ở mức thấp nhất từ gần nửa thế kỷ nay. Lạm phát đang từ 9 % năm 2022 dưới tác động chiến tranh Ukraina đã được khống chế ở mức 3 %. Tổng sản phẩm nội địa tăng 3 %, cao gấp đôi so với của châu Âu. Chỉ số chứng khoán Wall Street đi từ kỷ lục này đến kỷ lục khác.
Dù vậy, từ hơn một năm nay, các thăm dò đều cho thấy dân Mỹ vẫn không hài lòng với những thành quả kinh tế dưới thời Biden: 45 % những người được hỏi « bất mãn vì chính sách nhập cư » của cặp bài trùng Biden–Harris ; 58 % « không tán đồng » chính sách kinh tế mang tên ông Biden. Tệ hơn nữa, 2/3 cử tri « nghĩ rằng » kinh tế Mỹ « tồi tệ hơn », đời sống của họ « chật vật hơn » so với thời tổng thống Trump, vì vật giá leo thang.
Năm 2022, giá nhu yếu phẩm đã tăng gần 11 % trước khi được khống chế còn 2,2 %. Dân Mỹ cũng cảm thấy sức mua của họ bị sụt giảm: so với thời điểm ông Biden lên cầm quyền hồi tháng 1/2021, chỉ số giá cả tại Mỹ tăng 19,2 % trong khi lương trung bình chỉ tăng có 17%.
Chênh lệnh không nhiều, nhưng công luận vẫn cảm thấy bất công.
Trả lời tuần báo Express cuối tháng 2/2024, kinh tế trưởng quỹ đầu tư Carmignac của Pháp, ông Raphael Gallardo, nêu lên một nghịch lý của cử tri Hoa Kỳ: Từ 2021 đến nay, thế giới phải đối mặt với ba cuộc xung đột vũ trang ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu, đó là chiến tranh Ukraina, xung đột giữa Israel và Hamas ở Gaza và những đợt tấn công của lực lượng Yemen Houthi tại Hồng Hải, một trong những trục giao thương chủ yếu của thế giới… Nhưng dân Mỹ vẫn muốn « giá một lon Coca Cola phải được giữ nguyên như hồi năm 2020 », cho dù lương trung bình trong cùng thời kỳ đã tăng thêm 17 %.
Thêm một điểm lạ trong cách nhìn của dân Mỹ về kinh tế và quyền lợi, được giới phân tích ghi nhận, là cho dù lạm phát tại Hoa Kỳ giờ đây đã rơi xuống còn 3 %, đối với đại đa số những người được hỏi, tỷ lệ đó vẫn là « từ 8 đến 10 % » tức là cao gấp đôi, gấp ba so với thực tế.
Mối lo « bị người nhập cư cướp việc làm »
Một yếu tố khác cho thấy chưa chắc kinh tế đã là mối quan tâm hàng đầu của cử tri Hoa Kỳ. Theo nhiều cuộc thăm dò, chính sách nhập cư của tổng thống Biden là chủ đề số một gây bất mãn, trước cả những lo lắng của dân chúng về tăng trưởng kinh tế, lạm phát hay thất nghiệp.
Cũng kinh tế gia Gallardo lưu ý, công luận Mỹ không quan tâm đến việc nhờ có nguồn lực lao động nhập cư mà Hoa Kỳ tránh được tình trạng khan hiếm nhân công, để rồi giới chủ phải tăng lương cho nhân viên, qua đó gây lạm phát. Những nạn nhân chính, người lao động Mỹ, bị thiệt thòi.
Công luận chỉ trông thấy người nhập cư là một mối đe dọa « cướp » mất việc làm của người Mỹ. Phe ủng hộ ứng cử viên tổng thống Cộng Hòa trông đợi rất nhiều vào hứa hẹn của Donald Trump, cắt giảm số người nhập cư hợp pháp vào Hoa Kỳ và mạnh tay trục xuất các thành phần « bất hợp pháp » để bảo vệ 11 triệu công việc làm cho người Mỹ.
Năm 2016 nhà tỷ phú Donald Trump từng đắc cử nhờ 2 khẩu hiệu « America First » và « Make America Great Again », thuyết phục được những người bị tiến trình toàn cầu hóa bỏ rơi, những nạn nhân của hiện tượng « phi công nghiệp hóa ».
Bốn năm sau, đối thủ của ông bên đảng Dân Chủ Joe Biden chủ trương xây dựng lại một nền tảng công nghiệp mới cho nước Mỹ để thu hút trở lại thành phần cử tri đã dồn phiếu cho Trump. Thông tín viên của hãng tin Anh Reuters tại Nhà Trắng, Trevor Honeycut điểm lại một trong những vế quan trọng nhất trong chính sách kinh tế được gọi là Bidenomics :
« Joe Biden đã gây ngạc nhiên khi ông huy động một số người từng cộng tác với thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, một trong những đối thủ của ông trong các vòng bầu cử sơ bộ. Bà Warren có nhiều ý tưởng cấp tiến và trong nhóm làm việc với ông Biden cũng đã có không ít người muốn đem lại một số thay đổi, thí dự như trong chính sách cạnh tranh và cả về chính sách công nghiệp của Mỹ. Đội ngũ các cộng tác viên và cố vấn của ông Biden tin rằng Mỹ cần phát triển công nghệ bán dẫn, thúc đẩy ngành chế tạo bình điện cho xe hơi … Nhiều người đã phấn khởi trước viễn cảnh chính quyền Biden sẽ mang lại phúc lợi cho tầng lớp công nhân ».
Trong mục tiêu xây dựng lại một nền công nghiệp cho nước Mỹ với đạo luật IRA (Inflation Reduction Act), chính quyền Biden dành ưu tiên cho ngành sản xuất xe hơi và các tập đoàn trong ngành chế tạo chip điện tử, linh kiện bán dẫn. Thế nhưng, theo các thống kê của Washington, lực lượng lao động trong ngành công nghiệp tại Hoa Kỳ hiện là 13 triệu và tỷ lệ này vẫn không thay đổi so với hồi 2022.
Một chính xách xã hội quá xa lạ với công luận Mỹ
Vế thứ nhì quan trọng không kém trong chiến lược kinh tế của tổng thống Biden mang tính xã hội và thường được ví như một « New Deal » đời tổng thống Franklin Roosevelt.
Howard Schneider cũng của Reuters bên cạnh Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ tán đồng tầm nhìn táo bạo của tổng thống Biden nhưng phóng viên này lấy làm tiếc là, do không có được đa số ở Hạ Viện, tổng thống Mỹ thứ 46 đã không áp dụng được chương trình của mình :
«Về mặt chiến lược, thì rõ ràng là đã có quyết tâm đẩy mạnh mảng công nghiệp. Về phương diện xã hội, tôi thấy tổng thống Biden nỗ lực giảm bớt gánh nặng nợ nần cho sinh viên… tiếc là những nỗ lực đó không hoàn toàn thành công. Thế rồi, ông Biden cũng đã cố gắng giúp đỡ tầng lớp trung lưu. Chính sách đó không chỉ là bảo đảm cho những bà mẹ đơn thân có thu nhập thấp vẫn có điều kiện chu cấp cho con cái, hay tạo điều kiện để giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho các sinh viên phải đi vay để đóng tiền học, mà còn rộng hơn thế nữa. Chính quyền Biden muốn đầu tư cho tương lại để những thế hệ trẻ không phải mang nợ suốt đời mà có thể yên tâm xây dựng cuộc sống một khi tốt nghiệp đại học » .
Cho đến tận 100 ngày trước bầu cử tổng thống Mỹ, biện pháp giảm thuế cho sinh viên Hoa Kỳ của chính quyền Biden vẫn là mục tiêu tấn công. Một phần chương trình mang tính xã hội của chính quyền Biden-Harris ngay từ đầu đã bị Hạ Viện bác bỏ, vì cho là quá tốn kém.
Ngân sách dự trù 1000 tỷ đô la để thay đổi bộ mặt của Mỹ đã bị giảm mất gần một nửa. Nửa còn lại, 500 tỷ đô la chủ yếu là để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Trong khitheo Laurence Nardon, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, tầng lớp trung lưu ở Hoa Kỳ bất mãn vì những bất bình đẳng quá lớn trong xã hội. Pierre André Chiappori giáo sư kinh tế đại học Columbia, cũng cho rằng đầu tư vào giáo dục là cần thiết vì đây là một nguyên nhân lớn dẫn tới bất bình đẳng xã hội.
Chính sách bảo hộ : Khác lọ cùng nước
Về chính sách ngoại thương, tổng thống Dân Chủ Joe Biden thực sự tiếp tục đường lối của người tiền nhiệm. Samy Chaar kinh tế gia thuộc ngân hàng Lombard Odier nhắc lại : Biden tuy có những lời lẽ ngoại giao hơn với Bắc Kinh và đã tỏ thái độ « hợp tác với các đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ, nhưng ông không hề hủy các biện pháp đánh thuế vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc mà chính quyền Trump đã ban hành ». Trái lại chính quyền Biden có những bộ luật bảo vệ người lao động Mỹ, để bảo đảm rằng các doanh nghiệp của Hoa Kỳ phải được đối xử công bằng.
Áp dụng một chính sách bảo hộ là một trong những mẫu số chung hiếm hoi giữa hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa.
Khác biệt duy nhất, theo chuyên gia kinh tế ngân hàng Lombard Odier là, như Biden, trong cương vị tổng thống, bà Kamala Harris sẽ không hành xử thô bạo như Donald Trump. Trong nhiệm kỳ đầu, Trump đã không chỉ « trừng phạt » Trung Quốc đánh cắp việc làm của người lao động Mỹ, mà còn không nương nhẹ các đồng minh, từ Nhật Bản, Hàn Quốc đến Liên Hiệp Châu Âu.
Trước Đại Hội đảng Dân Chủ Chicago từ 19-22/08/2024, Kamala Harris đã lao vào cuộc vận động tranh cử và đang hé lộ dần chính sách kinh tế và xã hội.
Một số nhà quan sát ghi nhận: Harris tiếp tục con đường mà tổng thống Biden đã vạch ra, nhưng bà sẽ nhấn mạnh thêm một số điểm: trợ cấp gia đình để mỗi đứa trẻ ở Hoa Kỳ được nuôi dưỡng trong điều kiện tử tế, đó là điểm khởi đầu cho việc chấm dứt những bất bình đẳng và bất công trong xã hội.
Tạo điều kiện để người Mỹ được chăm sóc về y tế tốt hơn, đẩy mạnh vai trò của các công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động … sẽ là một vài mục tiêu mà ban vận động tranh cử của bà Harris đang nhắm tới. Đó là những mục tiêu khó hoàn thành. Kinh tế gia Raphael Gallardo trong bài trả lời phỏng vấn trên tuần báo l’Express nói đến mâu thuẫn của cử tri Hoa Kỳ : người Mỹ bất mãn vì bất công xã hội, nhưng dân biểu Mỹ thì lại liên tục chống đối các biện pháp về y tế hay giáo dục để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, tạo sân chơi bình đẳng cho mọi người cùng thăng tiến.
Trevor Honeycut
« Joe Biden đã gây ngạc nhiên khi ông huy động một số người từng cộng tác với thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, một trong những đối thủ của ông trong các vòng bầu cử sơ bộ. Bà Warren có nhiều ý tưởng cấp tiến và trong nhóm làm việc với ông Biden cũng đã có không ít người muốn đem lại một số thay đổi, thí dự như trong chính sách cạnh tranh và cả về chính sách công nghiệp của Mỹ. Đội ngũ các cộng tác viên và cố vấn của ông Biden tin rằng Mỹ cần phát triển công nghệ bán dẫn, thúc đẩy ngành chế tạo bình điện sử dụng trong công nghiệp xe hơi … Nhiều người đã phấn khởi trước viễn cảnh chính quyền Biden sẽ mang lại phúc lợi cho tầng lớp công nhân ».
Howard Schneider :
« Về mặt chiến lược, thì rõ ràng là đã có quyết tâm đẩy mạnh mảng công nghiệp. Về phương diện xã hội, thì tôi thấy là tổng thống Biden nỗ lực giảm bớt gánh nặng nợ nần cho sinh viên… tiếc là những nỗ lực đó không hoàn toàn thành công. Thế rồi ông Biden cũng đã cố gắng giúp đỡ tầng lớp trung lưu. Chính sách đó không chỉ đơn thuần là bảo đảm cho những bà mẹ độc thân có thu nhập thấp vẫn có điều kiện chu cấp cho con cái hay tạo điều kiện để giảm nhẹ gắng nặng tài chính cho các sinh viên đã phải đi vay để đóng tiền học mà còn rộng hơn thế nữa. Chính quyền Biden muốn đầu tư cho tương lại để những thế hệ trẻ không phải mang nợ suốt đời mà có thể yên tâm xây dựng cuộc sống một khi tốt nghiệp đại học » .
Tue, 30 Jul 2024 - 182 - Olympic Paris 2024: Thách thức phục vụ tại nhà hàng lớn nhất thế giới
Pháp nổi tiếng về ẩm thực, các đầu bếp Pháp cũng có tham vọng phá rất nhiều kỷ lục của Thế Vận Hội Paris 2024. Phục vụ 15.000 vận động viên Olympic và Paralympic một cách chu đáo nhất, cung cấp 13 triệu bữa ăn trong vòng 70 ngày, với 550 thực đơn khác nhau ... Nước chủ nhà đã huy động những đầu bếp danh tiếng nhất cho sự kiện này và tựa như một vận động viên, mỗi ông vua bếp đều đã có một sự chuẩn bị « nhiều năm ».
Một tuần trước lễ khai mạc Olympic Paris 2024, Pháp đã khánh thành « nhà hàng lớn nhất thế giới » tại làng Thế Vận Hội khu vực Saint Denis, ngoại ô phía bắc Paris. Nhà hàng hoạt động 24 giờ mỗi ngày và 7 ngày trong tuần.
Nhà hàng XXL
Đến thăm làng Thế Vận hôm 22/07/2024, tổng thống Emmanuel Macron đã ăn trưa với một số các vận động viên Pháp tại nhà hàng với 3.500 chỗ ngỗi, phục vụ mỗi ngày 40.000 bữa ăn, từ bữa điểm tâm cho đến bữa ăn tối. Ủy Ban Thế Vận đã ủy ký hợp đồng hơn 60 triệu euro với Sodexo Live chuyên cung cấp các dịch vụ ăn uống tại các sự kiện, đặc biệt là các sự kiện thể thao lớn như Cúp bóng bầu dục thế giới, Giải quần vợt quốc tế Roland Garros. Từ hai năm qua, Sodexo đã tuyển dụng thêm 6.000 nhân viên, trước nhu cầu mỗi ngày cần 600 người phục vụ « ở trong bếp », và 500 nhân viên « chạy bàn ».
Nhà hàng này được chia thành 4 khu vực, chuyên về ẩm thực Pháp, ẩm thực Châu Á, Châu Phi –vùng biển Caribe và nhất là một khu vực mang tên « Les Cuisines du Monde ». Từ nay cho đến khi Paralympic bế mạc ngày 08/09/2024, bất kể giờ nào cũng có sẵn những gian thịt nướng, những quầy với đủ các loại súp, đủ các loại hoa quả, nước uống, những món bánh tráng miệng, một quầy phó mát, buffet đồ ăn nóng … chờ đợi thực khách.
Cũng tại khu vực nhà hàng Olympic này, có hẳn một « lò bánh mì » với các nghệ nhân nướng bánh tại chỗ và mỗi ngày 40.000 ổ « baguettes » vàng hườm và thơm phức và nhiều loại bánh mì khác nữa rất Pháp.
Les Plats - signatures
Nhưng độc đáo hơn cả là khi mà khách tham quan và các vận động viên trên toàn thế giới được tận mắt trông thấy 3 trong số rất nhiều đầu bếp trứ danh của Pháp thực hiện những món ăn đặc biệt « Plat - signature » chỉ phục vụ tại nơi này.
Ba đầu bếp phục vụ mỗi ngày từ 200 đến 300 bữa ăn cao cấp đó đều là những tên tuổi lớn của làng ẩm thực Pháp. Alexandre Mazzia chẳng hạn là chủ nhân nhà hàng 3 sao trong Guide Michelin ở Marseille. Trước khi « đứng bếp », anh từng là một nhà thể thao chuyên nghiệp, chơi bóng rổ ở hạng A toàn quốc. Còn ông vua bếp Akrame Bennallal, giải thưởng Ẩm Thực Pháp của Guide Gault&Millau năm 2011, mới hơn 40 tuổi, ngoài nhà hàng Paris, trong khu vực « tam giác vàng » quận 8, đã mở thêm 2 nhà hàng tại Hồng Kông và Manila. Còn Amadine Chaignot của nhà hàng Pouliche quận 10 Paris là « bà vua bếp » phục vụ tại khu vực « Cuisine étoilée » trong nhà hàng Olympic.
Chưa có tên trong bảng vàng của hai cuốn hướng dẫn ẩm thực là Guide Michelin hay Gault &Millau, nhưng Amandine đã để lại nhiều dấu ấn trong những nhà hàng và khách sạn sang 5 sao tại Paris, hay Luân Đôn như Le Crillon, Hotel Ritz tại ở Anh và nhất là từng phục vụ trong nhà hàng Le Meurice dưới sự điều khiển một tên tuổi lớn trong nền ẩm thực Pháp là Alain Ducasse …
Đài truyền hình Pháp France 24 đã gặp được Amandine Chaignot khi cô đang nấu thử một món Pintade aux Ecrevisses đặc biệt giành cho thực khách của ngôi làng Olympic và cô hoàn toàn ý thức được rằng đây là một trọng trách rất lớn :
« Tôi đang nấu gà châu Phi, nấu lửa nhỏ.Thịt vẫn còn hơi lòng đào, mềm và rất ngọt … Vâng, đây thực sự là một thử thách rất lớn, bao hàm nhiều biểu tượng nữa : tôi được đại diện cho nước Pháp, vốn nổi tiếng với nghệ thuật ẩm thực, nổi tiếng với phong cách sống của người Pháp. Đồng thời phục vụ một khối lượng khách rất, rất lớn trong suốt mùa Thế Vận Hội và Paralympic không phải chuyện đùa ! »
Chủ nhà hàng Pouliche trông thấy nhiều điểm tương đồng của một đầu bếp với một vận động viên thể thao :
« Có rất nhiều điểm tương đồng giữa giới thể thao và những người đứng bếp : thứ nhất là chúng tôi làm việc trong tinh thần đồng đội, khai thác những điểm mạnh của mỗi cá nhân, phối hợp lại tất cả những điểm son đó để lập nên chiến công. Tất cả mọi người đều phải vượt lên trên những khó khăn của chính mình, chứ không thể ỷ lại vào kinh nghiệm đã có và mỗi món ăn đem đến cho thực khách đều là là một thành tích của nhóm đầu bếp ».
Nghiên cứu 800 thực đơn để giữ lại 5 đề nghị cuối cùng
Để chọn được 5 thực đơn ưng ý mang đến làng Olympic ở Saint Denis, đầu bếp Alexandre Mazzia đã tham khảo 800 thực đơn khác nhau trong « một góc nhỏ » của kho tàng ẩm thực Pháp. Từng là một nhà thể thao chuyên nghiệp, chủ nhà hàng 3 sao Michelin này thích nghi những thực đơn của mình với nhu cầu dinh dưỡng của các vận động viên :
« Các vận động viên có những thói quen, giờ giấc ăn uống hoàn toàn khác với chúng ta, họ có nhu cầu được phục vụ bất luận ngày, đêm … Chúng tôi phải để ý đến yếu tố đó. Ngoài ra, quan trọng nhất là chế độ dinh dưỡng của các vận động viên. Chúng tôi phải điều chỉnh thực đơn của mình để đáp ứng tốt nhất những tiêu chuẩn đó ».
Sodexo Live, vị « nhạc trưởng » trong hệ thống nhà hàng Olympic
Sodexo Live được chọn để phục vụ 13 triệu bữa ăn trong 70 ngày suốt thời gian diễn ra Thế Vận Hội và Paralympic Paris. Frank Chavevas, giám đốc Sodexo đặc trách các sinh hoạt tại Pháp và Tây Ban Nha ngay từ đầu đã đề ra mục tiêu Nhà hàng trong Ngôi làng Thế Vận phải đáp ứng hai tiêu chí :
« Nhà hàng trong ngôi làng Olympic phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn như là phù hợp với nhu cầu về dinh dưỡng của các vận động viên, và hai là chúng ta đang ở Paris, mà nghệ thuật ẩm thực của Pháp lại rất nổi tiếng. Đây là cơ hội để vinh danh nghệ thuật ẩm thực của Pháp ».
Ông Laurent Pasteur điều hành Làng Olympic nhấn mạnh thêm :
« Mục tiêu là phục vụ tất cả các vận động viên của 206 phái đoàn quốc tế đến dự Thế Vận Hội từ bữa điểm tâm cho đến bữa ăn tối. Thực đơn phải thích nghi với nhu cầu về dinh dưỡng để các vận động viên có thể thi đấu trong những điều kiện tốt nhất ».
Protéine từ rau củ quả
Vào lúc ngày càng có nhiều vận động viên quốc tế « ăn chay », chỉ tiêu thụ rau, củ quả, nên lần đầu tiên trong lịch sử Olympic, 1/3 các món ăn tại chỗ là « đồ chay » và 40 % các thực phẩm sử dụng là những « sản phẩm sạch ». Trong tinh thần này, bếp trưởng của Sodexo Charles Guilloy đã tìm đủ mọi cách để chiều lòng những thực khách « khó tính nhất » :
« Thông thường tôi thích sử dụng các loại đậu để chế biến. Đậu gà rất giàu chất protéine và rất thích hợp với chế độ dinh dưỡng của các vận động viên (…) Dịch vụ ăn uống ảnh hưởng đến thành tích của các vận động viên, thành thử ra chúng tôi phải tôn trọng thói quen và nhu cầu dinh dưỡng của họ. Chúng tôi đề nghị những thực đơn đa dạng nhất để họ có nhiều chọn lựa và qua đó họ đem lại những thành tích tốt nhất trong trong mùa Thế Vận Hội lần này (…) Các bạn chớ nhầm ăn chay không phải là chúng ta chỉ ăn rau, củ. Mỗi món ăn chay ở đây là cả một sự sáng tạo, để kết cấu những hương vị, những sản phẩm khác nhau thành một món ăn lạ miệng … »
Khoai tây hay những củ « Sâm đất »
Để giành được hợp đồng với Ủy Ban Thế Vận Hội Paris, Sodexo năm nay đã phải đáp ứng một số tiêu chí đặc biệt khác: không sử dụng những sản phẩm trái mùa ; 80 % thực phẩm phải được sản xuất tại Pháp và 25 % trong số này do các nhà cung cấp không cách làng Olympic hơn 250 km. Mục tiêu đề ra là hạn chế tối đa mức độ phát thải khí làm hâm nóng trái đất. Chính vì thế nông trại Vaulerand, cách làng Thế Vận Hội chưa đầy 25 km, được chọn để cung cấp rau củ cho sự kiện. Trong những tuần lễ sắp tới nông trại này cung cấp 18 tấn khoai tây cho các đầu bếp ở làng Olympic. Lionel Plasmans, chủ tịch tổng giám đốc nông trại nói đùa, khoai tây này là « những củ sâm đất » đối với các lực sĩ :
« Tôi thực sự cầu mong các vận động viên có nhiều sức lực để thi đấu nhờ ăn khoai tây mà chúng tôi cung cấp ».
Sodexo và tham vọng Olympic Los Angeles 2028
Đối với Jennifer Barginsen, cũng trong êkip của Sodexo từ Mỹ được huy động sang giúp các đồng nghiệp châu Âu trong mùa Thế Vận Hội lần này, cô nói huy chương vàng Olympic không chỉ giành riêng cho các vận động viên, mà nhân viên dịch vụ ăn uống cũng muốn đoạt chức vô địch :
« Chúng tôi huy động đội ngũ ở khắp nơi trên thế giới. Tôi đến Paris và làm việc như thể tôi vẫn đang ở Hoa Kỳ. Sodexo Live có một đội ngũ giỏi nhất trên thế giới và tựa như các nhà thể thao đang tập hợp về Paris, chúng tôi cũng muốn đoạt huy chương vàng ».
Bên cạnh nhà hàng trong khuôn viên làng Thế Vận, ở mỗi nơi diễn ra các cuộc tranh tài đều có những « điểm hẹn của những người có tâm hồn ăn uống » và đây cũng là dịch vụ Sodexo Live được độc quyền cung cấp.
Sodexo là một đại tập đoàn của Pháp với gần 2 tỷ doanh thu một năm, nhưng địa bàn chính lại là Hoa Kỳ (58 % doanh thu). Nhà cung cấp dịch vụ ăn uống trong các sự kiện thể thao này không che giấu tham vọng « giành được thêm hợp đồng » cho Thế Vận Hội 2028, tổ chức tại thành phố Thiên Thần Los Angeles.
Tue, 23 Jul 2024 - 181 - Công nghệ cao : Mỹ và Liên Âu đã giúp Trung Quốc cất cánh ?
Quá trễ để « tách » khỏi Trung Quốc ? Trong ít nhất 4 lĩnh vực công nghệ cao, qua các dự án đầu tư chồng chéo, Liên Âu và Mỹ đã « gắn kết » quá chặt với Trung Quốc. Tại sao chỉ với 12% đầu tư vào công nghệ cao của Trung Quốc, các doanh nghiệp Âu Mỹ bị cho là đã giúp một « đối thủ » cất cánh, để rồi Hoa Kỳ không còn là tâm điểm của thế giới về công nghệ mũi nhọn, châu Âu thì hoàn toàn mờ nhạt trong cuộc đua ?
Âu-Mỹ không chỉ lo những con chim đầu đàn trong những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn của mình bị một đối thủ đáng gờm như Trung Quốc thâu tóm. Từ 2018 Bruxelles và Washington theo dõi chặt chẽ hơn các dự án đầu tư của Âu-Mỹ vào Hoa Lục, Hồng Kông và Macao.
Chuyên nghiên cứu về các công nghệ mới, về chính sách công nghệ của Hoa Kỳ và Trung Quốc tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, tháng 7/2024 Mathilde Velliet công bố nghiên cứu mang tựa đề « Tài trợ cho đối thủ. Khi Mỹ và châu Âu đầu tư vào công nghệ Trung Quốc ». Tác giả tập trung vào những khoản đầu tư của châu Âu và Hoa Kỳ tại Trung Quốc trong giai đoạn 2003-2023. Đấy là thời điểm công nghệ mới tại Trung Quốc đã cất cánh rất nhanh. Công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc là hai lĩnh vực sớm được các đối tác phương Tây quan tâm.
Ngoài ra, Mathilde Velliet đã nêu bật những khác biệt trong chính sách đầu tư của Mỹ và của Liên Hiệp Châu Âu và không mấy ngạc nhiên khi thấy một số nhà đầu tư châu Âu và Mỹ đã dễ dàng hợp tác với những đối tác Trung Quốc đang trong tầm ngắm của các giới chức an ninh Hoa Kỳ.
Tuy nhiên trong nghiên cứu, bà Velliet giải thích bà căn cứ vào số lượng các dự án mà tránh đề cập đến các trị giá các các dự án đầu tư vì các dữ liệu liên quan đến trị giá các khoản đầu tư thường được các bên tài trợ và nhận tài trợ giấu kín.
1.602 dự án của Mỹ
Trả lời ban Việt ngữ RFI Mathilde Velliet trước hết cho biết mục đích chính của công trình là nhằm điểm lại xem rằng trong số những dự án đầu tư của Âu, Mỹ vào Trung Quốc có thuộc diện « đặt ra vấn đề » đối với an ninh, chiến lược của Washington cũng như Bruxelles hay không, chẳng hạn như do liên hệ giữa các công ty Trung Quốc với quân đội nước này.
Mathilde Velliet : « Tôi đã tập trung vào bốn lĩnh vực công nghệ mang tính chiến lược, gồm trí tuệ nhân tạo, công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học và thông tin lượng tử. Đây là bốn chìa khóa của toàn bộ ngành công nghiệp trong tương lai, liên quan đến cả vế thương mại lẫn quân sự. Bốn lĩnh vực này cũng đang là tâm điểm của những mối căng thẳng tại Washington và Bruxelles chung quanh chính sách đầu tư của Âu, Mỹ ra nước ngoài ».
Trong số các nhà đầu tư ngoại quốc vào công nghệ cao Trung Quốc, Liên Hiệp Châu Âu bị bỏ xa lại phía sau. Trong Liên Hiệp Châu Âu, thì Đức dẫn đầu với 49 dự án, Pháp về nhì với 36 thương vụ và Hà Lan đứng hạng 3, với 12 dự án. Tập đoàn Trung Quốc Didi, (tương đương với Uber), ông trùm về data center Tenglong Holding, hay Alibaba trong ngành mua bán trên mạng internet, đều đã phát triển nhờ có ít nhất là một nhà đầu tư Hoa Kỳ (Mathilde Velliet, p.49).
12 % đầu tư của Âu Mỹ tại Trung Quốc
Nhìn về tổng thể, trên 100 dự án đầu tư vào công nghệ cao tại Trung Quốc, 75 % do nước chủ nhà đảm nhiệm. Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu chỉ hiện diện trong 12 % các dự án và gần như luôn phải « đồng hành », dưới nhiều khía cạnh khác nhau, với các đối tác Trung Quốc.
Mathilde Velliet : « Khác biệt chính giữa Mỹ và châu Âu là về số lượng các dự án đầu tư. Trong cả bốn lĩnh vực vừa nêu (trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, công nghệ bán dẫn, tin học lượng tử), Hoa Kỳ là nguồn đầu tư ngoại quốc lớn nhất vào Trung Quốc với tổng cộng 1602 dự án trong hai thập niên qua. Con số này cao hơn rất nhiều so vớ 149 dự án của Liên Hiệp Châu Âu trong cùng thời kỳ. Ngoài ra, châu Âu chú ý nhiều vào các chương trình hợp tác trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo để sử dụng trong một vài lĩnh vực công nghiệp cụ thể, như trong ngành sản xuất xe hơi hay ngành kỹ thuật hóa học. Thí dụ như Đức đầu tư vào các dự án với Trung Quốc giúp ích cho công ngành sản xuất xe hơi.
Trái lại, các dự án của Mỹ đa dạng hơn, bao gồm cả bốn lĩnh vực tôi đã nêu bật trong nghiên cứu của mình. Khác biệt thứ ba giữa các dự án đầu tư của châu Âu và Mỹ vào Trung Quốc mang tính chiến lược : Đành rằng cả Bruxelles lẫn Washington cùng cân nhắc về mức độ rủi ro trong các dự án đầu tư vào Trung Quốc. Nhưng Nhà Trắng đã thông qua sắc lệnh để hạn chế đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Mỹ vào Trung Quốc, trong lúc Liên Âu thì vẫn còn đang trong giai đoạn suy nghĩ và tránh nhắm thẳng vào Trung Quốc ».
Bắc Kinh kiểm soát đầu tư nước ngoài
Vẫn bài nghiên cứu của Mathilde Velliet, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp ghi nhận : trong 4 lĩnh vực then chốt bà quan tâm, Âu-Mỹ đặc biệt chú ý đến trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học. Nhưng phương Tây chỉ chiếm thiểu số trong cả 4 mảng công nghệ mới nói trên. Trung Quốc và các ngân hàng của nước này đài thọ 78 % các dự án phát triển công nghệ sinh học và bán dẫn ; 77 % trí tuệ nhân tạo ; Trung Quốc đảm nhiệm 84 % đầu tư vào các phương tiện tin học lượng tử. Đến nay Mỹ trực tiếp tham gia vào hai chương trình đầu tư phát triển tin học lượng tử cho Bắc Kinh, Ý là một dự án. Tuy nhiên trong tất cả những lĩnh vực nhậy cảm vừa nêu, 3/4 trong số các dự án Âu, Mỹ được phép tham gia, đều là những mối « liên doanh » với các hãng của Trung Quốc.
Câu hỏi kế tiếp là tại sao Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu lo ngại về các khoản đầu tư dù khá ít ỏi (so sánh về số lượng dự án) vào Trung Quốc ?
Mathilde Velliet :« Các dữ liệu được thống kê trong 20 năm qua cho thấy, Mỹ và Liên Âu đầu tư vào công nghệ bán dẫn, vào trí tuệ nhân tạo, vào công nghệ sinh học và bất ngờ hơn cả là vào công nghệ thông tin lượng tử của Trung Quốc. Bất ngờ do chúng ta biết công nghệ thông tin lượng tử là một chìa khóa trong các cuộc chạy đua về công nghệ cao. Điều đó không cấm cản Mỹ đã đầu tư vào hai dự án và Liên Âu tham gia vào một chương trình hợp tác với Trung Quốc. Giờ đây điều khiến Washington lo ngại không vì Trung Quốc đã phát triển nhờ gặt hái được những thành quả từ các khoản đầu tư trực tiếp của Mỹ. Mối nguy hiểm, theo đánh giá của Washington, nằm ở chỗ qua 1 dự án hợp tác, phía Trung Quốc tiếp cận được nhiều đối tác của Mỹ, với nhiều nhà đầu tư Mỹ, tạo được uy tín để thu hút thêm các dự án đầu tư khác … Chính hiện tượng vết dầu loang đó đã giúp cho công nghệ cao của Trung Quốc nhanh chóng phát triển ».
Thế còn về phía châu Âu ?
Mathilde Velliet : « Bruxelles đặc biệt quan ngại trước viễn cảnh đầu tư của châu Âu cho phép Trung Quốc nâng cao khả năng quân sự, phát triển những công cụ để tấn công tin học … và đó có thể là những mối đe dọa trực tiếp nhắm vào an ninh và hòa bình của thế giới. Chính điều này khiến Liên Hiệp Châu Âu trăn trở. Bruxelles ít quan tâm hơn đến vế cạnh tranh trực tiếp về công nghệ. Tôi xin lưu ý, thông thường, không phải lúc nào Liên Hiệp Châu Âu cũng tuân thủ những đòi hỏi của Hoa Kỳ nhưng riêng trên hồ sơ công nghệ, thì sở dĩ Bruxelles quan tâm đến các khoản đầu tư của châu Âu vào Hoa Lục do phía Mỹ khẩn khoản kêu gọi Liên Âu đề cao cảnh giác với Trung Quốc ».
Chính châu Âu và Mỹ phá rào ?
Nghiên cứu mang tựa đề « Tài trợ cho đối thủ. Khi Mỹ và châu Âu đầu tư vào công nghệ Trung Quốc »,Mathilde Velliet ghi nhận :
Có ít nhất hai dự án của Đức tại Trung Quốc liên quan trực tiếp đến các thực thể bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách đen, do hoặc có liên hệ với quân đội Trung Quốc, hoặc do vi phạm nhân quyền, hoặc do hoạt động trong một lĩnh vực « trái ngược với lợi ích của Mỹ ».
Pháp đầu tư vào Trung Quốc qua trung gian Cathay Capital nhưng từ đầu tháng 1/2024, một trong những thành viên của Cathay bị Washington đưa vào danh sách trừng phạt.
Ngay bản thân Hoa Kỳ, cũng có không ít các nhà đầu tư Mỹ - như quỹ đầu tư GGV Capital - trong tầm ngắm của Hạ Viện Hoa Kỳ; « 7 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất của Mỹ đã bỏ vốn vào 4 lĩnh vực chiến lược của Trung Quốc, cộng tác với các doanh nghiệp Trung Quốc bị Washington trừng phạt ».
Trong số 1.602 dự án đầu tư của Mỹ vào Trung Quốc, có 12 thực thể Trung Quốc trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và công nghệ bán dẫn trong « danh sách đen ».
Phần lớn các hợp đồng được ký kết trước khi bộ Ngân Khố Hoa Kỳ công bố danh sách trừng phạt. Tuy nhiên nghiên cứu của viện IFRI cũng chỉ ra rằng, không ít các khoản đầu tư của Mỹ đã được đổ vào một số các doanh nghiệp nổi tiếng là hoạt động trong quỹ đạo của quân đội Trung Quốc, như Megvii, 4Paradigm, hay Intellifusion … Trường hợp một doanh nghiệp Mỹ hợp tác với 1 thực thể Trung Quốc đã có tên trong danh sách bị Hoa Kỳ trừng phạt cũng không phải là hiếm.
5 điểm kết luận
Trong phần kết luận, Mathilde Velliet đưa 5 điểm chính : Thứ nhất, trong tất cả 4 lĩnh vực công nghệ cao bà nghiên cứu, trọng lượng của đầu tư Âu, Mỹ vào Trung Quốc là « rất ít », 75 % vẫn phụ thuộc vào Bắc Kinh. Qua đó « tác động rất hạn chế » khi cho rằng đầu tư của phương Tây giúp công nghệ cao của Trung Quốc cất cánh và đây là kết luận thứ nhì của tác giả bài nghiên cứu.
Điểm thứ ba là trong 2 thập niên, châu Âu chỉ hiện diện trong 149 dự án đầu tư vào công nghệ cao của Trung Quốc, đó là một con số quá thấp để cho rằng Liên Hiệp Châu Âu đã biến Trung Quốc thành một mối đe dọa tiềm tàng …
Để trả lời câu hỏi tại sao dù với vị trí khiêm tốn Liên Hiệp Châu Âu và nhất là Hoa Kỳ lại sợ rằng đã « tài trợ cho một đối thủ » để giờ đây bị Trung Quốc bỏ lại phía sau, Mathilde Velliet tiếc rằng do thiếu một sự minh bạch cả từ hai phía (Âu - Mỹ và Trung Quốc) những dữ liệu bà khai thác không cung cấp những thông tin đáng tin cậy để giải đáp một cách nghiêm túc. Đó là kết luận thứ tư của tác giả.
Nhưng bài nghiên cứu của viện IFRI cho thấy mức độ phức tạp và chồng chéo trong mối liên hệ giữa các tập đoàn của Mỹ, của châu Âu với lại Trung Quốc. Đó là kết luận thứ 5 được tác giả nêu bật. Điểm cuối cùng này phần nào cho phép nghĩ rằng, không dễ áp dụng những sắc lệnh trừng phạt các công ty Trung Quốc khi mà số này đã gắn kết quá chặt chẽ với chính những tập đoàn công nghệ cao hàng đầu của Mỹ, với các quỹ đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ.
Tue, 16 Jul 2024 - 180 - Bất ổn chính trị vẫn là mối lo của các doanh nghiệp Pháp
Trong ba tuần cuối tháng Sáu, quyết định giải tán Quốc Hội cuốn trôi « ba tháng tăng trưởng » của nước Pháp. Kết thúc hai vòng bầu cử Quốc Hội, toàn cảnh chính trị Pháp vẫn trong một vùng sương mù và đó là điều các chủ doanh nghiệp và giới đầu tư tối kỵ.
Giới đầu tư và doanh nghiệp không an tâm trước nguy cơ bất ổn chính trị kéo dài, trước khả năng các chương trình cải tổ của nước Pháp để đem lại tăng trưởng, lấy lại cân bằng trong cán cân chi tiêu của nhà nước, giảm nợ công có nguy cơ bị chựng lại. Nhưng không mấy ai tin vào tính khả thi và hiệu quả từ những hứa hẹn trong cương lĩnh tranh cử của cánh tả.
Với kết quả vòng hai bầu cử Quốc Hội Pháp hôm 07/07/2024 Pháp đã đẩy lùi « kịch bản xấu nhất », nghĩa là quyền lực thuộc về tay một đảng bài ngoại, chống đối mọi chính sách kinh tế của Liên Âu mà Pháp là một trong hai đầu tàu quan trọng nhất.
Nhưng việc Quốc Hội mới có ba khối lớn với tương quan lực lượng khá ngang nhau và không một phe nào giành được đa số tuyệt đối để điều hành đất nước đặt ra nghi vấn về khả năng đàm phán giữa các đảng phái để tìm ra đồng thuận.
« Wait and See »
Ba lực lượng chủ chốt ở Quốc Hội Pháp sắp tới gồm đảng cực hữu Tập Hợp Dân Tộc RN, cánh trung với liên minh Đồng Hành Ensemble và liên minh cánh tả Mặt Trận Bình Dân Mới NFP. Khối này có nhiều dân biểuhơn cả, nhưng lại không đồng nhất, bao gồm bốn thành phần (đảng Xanh EELV, đảng Xã Hội PS, đảng Cộng Sản PCF và đảng cực tả Nước Pháp Bất Khuất LFI). Với bức tranh chính trị này các bên thương lượng được với nhau để thành lập chính phủ đòi hỏi thời gian. Sau này, tìm được đồng thuận ở Quốc Hội để thông qua các dự luật sẽ luôn đòi hỏi sức thuyết phục cao của mỗi bên. Trong mắt các doanh nghiệp, sự bấp bênh về mặt chính trị này kềm hãm một số chương trình đầu tư và các dự án tuyển dụng thêm lao động. Trả lời đài phát thanh tư nhân Radio Classique sau kết quả bầu cử Quốc Hội Pháp vòng 2 hôm 08/07/2024, Jean - Eudes du Mesnil, tổng thư ký Liên Đoàn Các Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ CPME không che giấu mối lo ngại
« Hiện tại chúng ta đang đứng trước một tình huống bất định. Câu hỏi lớn là phe nào sẽ lên điều hành đất nước. Các doanh nghiệp, từ khi có tin giải tán Quốc Hội, đã dừng các dự án đầu tư, đình chỉ các kế hoạch tuyển dụng thêm nhân viên. Vấn đề đặt ra là nội các mới có đủ sức thuyết phục, để giới doanh nhân tin tưởng trở lại vào tương lai, để thúc đẩy trở lại các dự án đang bị tạm ngừng hay không. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đã trong tình thế khó khăn. So với cùng thời kỳ năm ngoái, hiện đã có thêm 18 % các doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản. Trên trang mạng tìm việc làm Hellowork, trong hồi tháng 5/2024, trong 1 tháng nhu cầu tuyển dụng nhân viên tăng 15 %. Dưới tác động bầu cử, bước sang tháng 6/2024 nhu cầu tuyển người giảm đi mất 5 %. Điều đó chứng tỏ là giới chủ lo lắng và họ đợi xem rằng đường lối kinh tế của Pháp sắp tới đây sẽ ra sao ».
Niềm tin, bàn tay vô hình điều khiển kinh tế
Xavier Jaravel trường kinh tế London School of Economics cũng cho rằng « các hoạt động ở Pháp trong thời gian vừa qua gần như bị « đóng băng » thậm chí một số lĩnh vực đã bị « thụt lùi ». Chỉ số PMI đo lường sức năng động trong ngành công nghiệp của Pháp trong tháng 6 tuột dốc so với một tháng trước đó. Đầu tháng 6/2024 Viện Thống Kê Quốc Gia Pháp báo động chỉ số tin tưởng của các hộ gia đình đã rơi xuống mức còn chưa đầy 90 điểm, tương đương với thời kỳ Pháp phải đối mặt với đại dịch Covid trong nữa đầu năm 2020.
Nhu cầu cấp bách về một chính sách kinh tế rõ ràng
Vào lúc tổng thống Emmanuel Macron vẫn giữ thủ tướng Gabriel Attal tiếp tục điều hành đất nước cho đến khi Quốc Hội mới được định hình để có thể thành lập chính phủ, thì các doanh nhân đang có rất nhiều câu hỏi cần nhanh chóng được giải đáp.
Câu hỏi đầu tiên chính sách kinh tế của Pháp sắp tới đây có cho phép đem lại tăng trưởng và giúp người dân đủ tự tin để tiếp tục tiêu thụ hay không ? Đây là chìa khóa cho phép các chủ doanh nghiệp khởi động lại các dự án đầu tư và đủ tự tin để tuyển dụng thêm nhân công.
Liên minh cánh tả NFP đã về đầu trong cuộc bầu cử Quốc Hội vừa qua. Ẩn số thứ hai là tập hợp này sẽ có áp dụng chính sách « hào phóng » hứa hẹn tăng lương, tăng sức mua cho người lao động, dẹp bỏ những cải tổ về bảo hiểm thất nghiệp, về tuổi hưu trí hay không.
NFP chủ trương tăng lương và bơm thêm sức mua cho người dân, tăng lương tối thiểu lên thành 1.600 euro thay vì 1.398 euro như hiện tại, bơm thêm 25 tỷ euro cho người lao động để kích cầu. Vẫn tổng thư ký Liên Đoàn Các Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ CPME Jean -Eudes du Mesnil phân tích về gánh nặng cho các doanh nghiệp nếu chính phủ mới áp dụng biện pháp này.
« Đội mức lương tối thiểu lên thành 1.600 euro, có nghĩa là ngay lập tức tăng thêm 15 % lương cho nhân viên. Trong một số lĩnh vực thuộc diện nhọc nhằn, người lao động được hưởng quy chế làm việc có 32 giờ một tuần, với điều khoản tăng lương tối thiểu vừa nêu, đồng nghĩa với việc giới chủ tăng lương đến 25 % cho nhân viên. Có bao nhiêu doanh nghiệp vừa và nhỏ đủ sức chịu được khoản chi tiêu phụ trội đó ? Trước cuộc bầu cử Quốc Hội, nghiệp đoàn của chúng tôi đã thực hiện một cuộc thăm dò về điều khoản tăng lương tối thiểu lên thành 1.600 euro như đề xuất của Mặt Trận Bình Dân Mới NFP. Kết quả cho thấy là 14 % sẽ phải đóng cửa vĩnh viễn, 27 % những người được hỏi báo trước là sẽ phải sa thải một phần nhân viên và 50 % dự trù sẽ tăng giá các sản phẩm thành, hay tăng giá các dịch vụ cung cấp. Trong điều kiện đó, mục đích tăng lương để bơm thêm mãi lực cho người dân có hiệu quả hay không ? Thực tế có thể hoàn toàn khác với những tính toán ban đầu ».
Tăng mức lương tối thiểu : Lợi bất cập hại
Nếu giới sản xuất phải tăng giá thành, đâu đó người tiêu dùng sẽ phải hứng chịu hậu quả từ biện pháp tăng lương cho người lao động. Vật giá leo thang, hàng của Pháp đắt hơn so với của các đối tác thương mại trong và ngoài khối euro. Cán cân thương mại lại càng bị thâm hụt.
Hơn nữa trong đề xuất, NFP quên mất rằng, trong thế giới mở rộng hiện tại, nhiều doanh nghiệp có thể di dời cơ sở sản xuất sang những nơi có nhân công rẻ, có thể mở thêm nhà máy ở nước ngoài, tức sẽ không tạo công việc làm cho dân Pháp, ngừng các chương trình đầu tư trên đất Pháp, khi đó thì tính toán « tăng sức mua cho người lao động Pháp » như trong chương trình của liên minh cánh tả có còn hiệu quả nữa hay không và có lợi cho người lao động với thu nhập thấp – lương tối thiếu, nếu như Pháp không còn các nhà máy sản xuất ?
Paris vẫn là một bãi đáp an toàn ?
Song một chỉ dấu quan trọng đó là trong hai ngày vừa qua, sàn chứng khoán của Pháp đã khá ổn định, đồng euro cũng không hề bị sụt giá. Theo giới phân tích, bên cạnh những hoài nghi về tính thực tế của chương trình kinh tế bên cánh tả đề xuất, các nhà đầu tư cũng tin vào tính linh hoạt của một số các nhân vật chủ chốt trong Mặt Trận Bình Dân Mới. Đảng cực tả Nước Pháp Bất Khuất chỉ là một trong bốn thành viên của NFP nên bắt buộc phải thương lượng và nhượng bộ. Điều đó cũng có nghĩa là không dễ để NFP bơm thêm sức mua cho người dân, hay xóa bỏ luật cải cách các chế độ hưu bổng, cải cách bảo hiểm thất nghiệp mà ba đời thủ tướng Borne, Castex hay Philippe đã thông qua từ 2017 đến nay.
Tuy nhiên, trước mắt, Pascal Cagni, điều hành quỹ đầu tư C4Industries được báo Le Monde (04/07/2024) trích dẫn cho biết các dự án đầu tư vào Pháp có phần chựng lại nhưng chưa một kế hoạch nào bị « hủy bỏ ». Mới trung tuần tháng 5 vừa qua, một thăm dò của cơ quan tư vấn Ernest&Young cho thấy trong 5 năm liền Pháp là điểm đến « số1 » tại châu Âu, hơn hẳn Anh hay Đức. Tại diễn đàn Choose France tổ chức tại lâu đài Versailles, Pháp thu hút gần 15 tỷ euro đầu tư trực tiép nước ngoài, trong đó có nhiều hợp đồng với nhữung tên tuổi lớn trên thế giới từ như Amazon, Pfizer hay Microsoft.
Hiển nhiên như Antoine Moyroud, thuộc quỹ đầu tư Lightspeed Venture Parteners đánh giá « bất ổn chính trị có thể làm ảnh hưởng đến tình trạng tài chính của một quốc gia, làm xáo trộn kinh tế và điều đó sẽ khiến nước Pháp trở nên kém hấp dẫn hơn ».
Lo ngại về nợ công trong lúc tình hình đã không mấy sáng sủa
Thêm một mối lo ngại khác liên quan đến trực tiếp đến tình trạng nợ nần của nước Pháp. Trong quý một năm nay, nợ công của Pháp lên tới 3.159 tỷ euro, tương đương với 110 % GPD. Thâm hụt ngân sách của nước Pháp cũng đã vượt quá xa so với quy định của khối sử dụng đồng tiền chung châu Âu. Paris đã bị Bruxelles và các cơ quan thẩm định tài chính quốc tế nhắc nhở rằng, đã đến lúc phải thận trọng hơn về ngân sách. Bộ trưởng Kinh Tế và Tài Chính sắp mãn nhiệm đã liên tục thông báo cắt giảm chi tiêu 10, rồi thậm chí là 20 tỷ euro trong ngân sách để thu hẹp bội chi. Do vậy chính phủ mới trong tay một liên minh cánh tả làm thế nào để tài trợ những chương trình mang tính xã hội nhưng lại tốn kém họ đã đề xuất ?
Nhiệm vụ của chính phủ sắp tới lại càng khó khăn hơn khi biết rằng, có nhiều báo động kinh tế Pháp đã bắt đầu « bước vào giai đoạn sóng gió ». Ngân Hàng Trung Ương Pháp e rằng mục tiêu GDP tăng 1 % trong năm nay sẽ « khó hoàn thành ».
Tue, 09 Jul 2024 - 179 - Kinh tế Pháp bên bờ vực thẳm sau bầu cử Quốc Hội ?
Vài tuần nữa Pháp sẽ có chính phủ mới. Pháp vẫn là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài và kể cả đối với các doanh nghiệp của Pháp ? Đảng Tập Hợp Dân Tộc RN và liên minh cánh tả Mặt Trận Bình Dân Mới NFP đã hứa hẹn những gì để kiếm phiếu của cử tri ? Giới chuyên gia kinh tế đánh giá thế nào về tính khả thi của 2 chương trình này ?
RN và NFP đề nghị những gì để khuyến khích tiêu thụ, để hỗ trợ lĩnh vực sản xuất, để giảm bội chi trong ngân sách của Nhà nước và giảm thâm hụt trong cán cân thương mại ?
Trong ba tuần, từ khi tổng thống Emmanuel Macron tuyên bố giải tán Quốc Hội, chỉ số chứng khoán của Paris mất hơn 6 %. Pháp đi vay vốn với lãi suất cao hơn đến 0,8 điểm so với Đức trong đợt huy động vốn vài ngày trước bầu cử lập pháp vòng 1 trước viễn cảnh công cuộc cải tổ kinh tế của Pháp bị tê liệt và thậm chí là có thể bị « khai tử ».
Ưu tiên số 1 : Hứa hẹn tăng lương và bơm thêm tiền cho dân
Để thu hút phiếu của cử tri, đảng cực hữu RN và liên minh cánh tả NFP (gồm 4 đảng : đảng Cộng Sản, đảng Xanh EELV, đảng Xã Hội PS và Nước Pháp Bất Khuất LFI) cùng xem việc tăng thu nhập, tăng sức mua cho các hộ gia đình là ưu tiến hàng đầu.
Cánh tả NFP đề nghị : Tăng 14 % lương tối thiểu SMIC cho người lao động ; tăng 10 % tiền hưu trí và kèm theo đó là hứa hẹn cho người lao động về hưu ở tuổi 62 thay vì 64. Tương tự như trong các nền kinh tế « kế hoạch hóa », bất chấp quy luật cung cầu trên thị trường, Mặt Trận Bình Dân Mới hứa là chính phủ sẽ « chận » giá đối với một số mặt hàng thiết yếu, tránh để lạm phát gây khó khăn cho các hộ gia đình. Tổng cộng NFP chủ trương bơm thêm 25 tỷ euro cho người lao động để kích cầu.
Đảng cực hữu RN trong tay chủ tịch Jordan Bardella nhưng quyền lực thực sự vẫn thuộc về Marine và gia đình Le Pen sáng lập viên của đảng này, thì chủ trương « giảm thuế trị giá gia tăng TVA để bơm thêm sức mua cho dân ». Đảng này hứa hẹn TVA tại Pháp đang từ 20 % sẽ rơi xuống còn 5,5 % đối với nhiều mặt hàng (đầu tiên hết là điện, ga) và danh sách được giảm loại thuế này sẽ còn được mở rộng ra thêm trong tương lai « tùy theo tình trạng tài chính của đất nước ». Thiệt hại cho ngân sách nhà nước do giảm thuế TVA dự trù tương đương với 17 tỷ euro một năm. Ngoài ra, RN cũng nhắm tới việc tăng 10 % lương cho người lao động.
Làm thế nào đễ tài trợ cho các biện pháp đó ?
Liên minh cánh tả dự trù tăng thuế đánh vào các doanh nghiệp, tăng thuế đánh vào « những tầng lớp giàu có ».
Về phía RN thì đảng này chủ trương « giảm thuế cho doanh nghiệp, với điều kiện họ tăng lương cho nhân viên 10 % ». Không thấy đảng này nói gì khi ngân sách của nhà nước n thất thu 17 tỷ euro vì giảm thuế TVA.
Các chuyên gia Pháp nghĩ gì các mục tiêu tăng thu nhập và mãi lực cho người dân Pháp của hai bên RN và NFP ? Trả lời đài truyền hình tư nhân BFM TV kinh tế gia Eric Heyer, thuộc Đài Quan Sát về Tình hình Kinh Tế Pháp OFCE không ngớt lời chỉ trích tính toán thiếu thực tế và sai lệch của cả hai đề xuất này :
« Có thực là sức mua của người Pháp bị sụt giảm hay không ? Nếu nhìn vào những chỉ số tại các quốc gia khác trong Liên Hiệp Châu Âu, như ở Ý và kể cả tại Đức thì câu trả lời là không. Đành rằng ở mọi nơi, lạm phát có gây khó khăn cho người tiêu dùng, nhưng không nói là hoàn cảnh ở Pháp tệ hại hay dân Pháp bị thua thiệt nhiều. Thu nhập đầu người vẫn ổn định. Nếu chúng ta nhìn vào thu nhập của 10 % dân Pháp nghèo nhất, mãi lực của họ không bị sa sút ; đối 20 % những người giàu nhất cũng vậy. Vấn đề còn lại là khối ở giữa hai ngưỡng này họ ảnh hưởng, có nghĩa là khoảng 70 % cảm thấy họ bị thiệt thòi.
Bên đảng cực hữu RN muốn giảm thuế trị giá gia tăng, kể cả thuế đánh vào năng lượng, để bơm thêm sức mua cho các hộ gia đình. Biện pháp này sẽ tốn khoảng 17 tỷ euro một năm. Theo tôi đây không phải là công cụ thích hợp vì giảm thuế TVA có nghĩa là sẽ tăng mãi mực cho tất cả những người tiêu dùng, tất cả những ai mua sắm tại Pháp. Thực sự thì người giàu họ đâu có cần được giảm thuế. Điều mà cương lĩnh tranh cử của đảng này không nói ra là làm thế nào tìm được 17 tỷ euro đó một năm cho ngân sách chung của nhà nước để lấp vào chỗ trống đó.
Cuối cùng, giảm TVA đánh vào xăng dầu, tức là khuyến khích tiêu thụ năng lượng hóa thạch, tăng khí thải carbon, gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời thì đảng này đòi ngừng trợ cấp cho các chương trình phát triển năng lượng tái tạo … Nói tóm lại giải pháp này là một tai họa mà chúng ta cần phải quên đi.
Thế còn bên liên minh cánh tả, Mặt Trận Bình Dân Mới NFP thì muốn huy động 25 tỷ euro để tăng mãi lực cho dân. Theo tôi số tiền đó là quá đáng khi biết rằng sức mua của người Pháp không hoàn toàn bị sụp đổ như họ đã khẳng định. Hơn thế nữa tập hợp cánh tả này chủ trương bơm thêm tiền để kích thích kinh tế, khuyến khích tiêu thụ….Theo kịch bản này, thì Pháp trong tay NFP sẽ là nước duy nhất áp dụng chính sách kích cầu, trong lúc mà Ý, Đức … chặt chẽ trong việc chi tiêu. Với kiến thức cơ bản của học thuyết Keynes cũng đủ hiểu đây sẽ là một tai họa ».
Tăng lương cho người lao động « giết » xuất khẩu của Pháp
Cũng trên đài BFM TV chuyên gia Eric Chaney, viện nghiên cứu Montainge- Paris trông thấy ở biện pháp này « một tai họa được báo trước » :
« Ai thì cũng muốn được tăng lương. Câu hỏi đặt ra là Pháp có phương tiện để chiều ý mọi người hay không ? Rất rõ ràng, tôi xin trả lời là không. Pháp bị thâm hụt mậu dịch, tức là khả năng cạnh tranh của hàng Pháp kém. Thêm vào đó cùng với nhiều nước châu Âu, chúng ta sử dụng đồng euro với tỷ giá hối đoái cố định. Nếu như Pháp một mình tăng lương cho người lao động, sản xuất của chúng ta thì không tăng. Hàng của Pháp lại càng đắt thêm, đúng không nào ? Như vậy cán cân thương mại của Pháp lại càng tệ hại hơn nữa.
Đặt giả thuyết các hãng lớn có phương tiện để tăng lương cho nhân viên, nhưng còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Pháp thì sao ? Nói cách khác chủ trương của hai danh sách cực hữu và liên minh cánh tả đẩy Pháp vào thế phải nhập khẩu hàng từ các nước khác nhiều hơn. Biện pháp đó không giúp ích gì cho ngành sản xuất của Pháp cả, tức là không tạo công việc làm cho dân Pháp, mà chúng ta sẽ mua nhiều hàng của Ý hay Đức hơn và đây sẽ là món quà Pháp tặng cho những nước ấy. … »
Tăng lương cho dân để tự hủy hoại cỗ máy sản xuất
Theo thẩm định của chuyên gia về thị trường lao động từng cố vấn cho cựu tổng thống Pháp Nicola Sarkozy ông Bertrand Martino, việc tăng lương tối thiểu SMIC 14 % khiến giới chủ « ngại » khi cần tuyển dụng nhân viên và sẽ « ảnh hưởng trực tiếp đến 350.000 người lao động tại Pháp ». Còn giáo sư Stéphane Carcillo trường Khoa Học Chính Trị Paris, Sciences Po, tự hỏi đảng cực hữu của gia đình Le Pen sẽ giúp được gì cho các công ty vừa và nhỏ tại Pháp khi họ không có phương tiện để tăng 10 % lương cho nhân viên ? Tính toán này không thực tế, khi biết rằng các doanh nghiệp nhỏ đã vất vả lắm mới có thể tăng 4 % lương cho nhân viên.
Về câu hỏi các chương trình kinh tế của hai Tập Hợp Dân Tộc và Mặt Trận Bình Dân Mới « tốn kém đến đâu », theo nghiên cứu của Viện Montaigne, liên minh cánh tả sẽ phải huy động thêm « 125 tỷ euro cho tài khóa 2024-2025 ». Còn chính sách của bên cực hữu sẽ khiến ngân sách của Pháp thâm hụt thêm « ít nhất là 100 tỷ euro » trong cùng thời kỳ.
« Ba màn lừa gạt » của RN và NFP
Trong một bài tham luận trên tuần báo Le Point hôm 18/06/2024 giải Nobel Kinh Tế năm 2022 Jean Tirole và giáo sư Olivier Blanchard từng giảng dậy tại trường MIT nổi tiếng của Hoa Kỳ, hai nhà kinh tế hàng đầu của Pháp đã rất khắt khe khi đánh giá về các chương trình kinh tế của RN và NFP.
Bài viết mang tựa đề « ba màn lừa gạt ». Màn lừa bịp thứ nhất, là cả hai cùng để cho cử tri hiểu rằng, cứ việc tự do chi tiêu, cứ việc mở van tín dụng để tăng lương, tăng tiền hưu trí, tăng trợ cấp cho doanh nghiệp rồi Nhà nước sẽ thanh toán hóa đơn…
Chủ tịch đảng cực hữu RN Jordan Bardella, cũng như nhân vật nặng ký của liên minh cánh tả, dân biểu đảng LFI Eric Coquerel khẳng định thâm hụt ngân sách của Pháp sẽ không bị đào sâu thêm. Thế nhưng nếu không có tăng trưởng mà chính phủ lại giảm thuế cho doanh nghiệp (chủ trương của RN) và tăng thuế đánh vào khu vực sản xuất, vào «người giàu »(lập trường của NFP) thì làm làm sao bội chi ngân sách không « thêm trầm trọng » ? Hai nhà nghiên cứu uy tín nhất của Pháp thẩm định thâm hụt ngân sách cho tài khóa 2024 sẽ tăng thêm tối thiểu là 6,3 % so với hồi 2023.
Đánh lạc hướng công luận với chiêu bài người nhập cư
Sự lừa gạt thứ nhì mà cử tri cần lưu ý là biện pháp mị dân bên đảng cực hữu RN đưa ra. Đảng này chủ trương một nước Pháp cho người Pháp, hạn chế nhập cư, người Pháp dùng hàng Pháp … Nhưng trong điều kiện đó dân Pháp sẽ phải chấp nhận mua hàng với giá đắt hơn, nếu nước Pháp của ông Bardella áp dụng chính sách bảo hộ.
Cũng là một ảo vọng theo hai chuyên gia Jean Tirole và Olivier Blanchard nếu đảng bài ngoại RN nghĩ rằng các đối tác thương mại của Pháp sẽ lặng yên cho Paris muốn làm gì thì làm.
Đó là chưa kể tính toán của RN muốn gạt những người song tịch ra khỏi những vị trí « then chốt » trong các hoạt động của nước Pháp. Lập luận này đánh trúng tâm lý của bộ phận người Pháp lo sợ bị thua thiệt vì người ngoại quốc. Nhưng làm thế nào để hạn chế người nhập cư khi biết rằng, chỉ riêng ngành xây dựng, 30 % công nhân là người lao động nước ngoài ? Thậm chí không ít trong số đó không có giấy tờ hợp lệ nên phải đi làm « chui » với đồng lương rất thấp.
Điều mà hai kinh tế gia uy tín của Pháp gọi là sự « lừa bịp thứ ba » chính là ảo vọng về viễn cảnh tăng trưởng của nước Pháp sắp tới. Câu hỏi khá đơn giản : nếu tập trung tăng lương cho nhân viên, vào việc đóng thuế, kể cả thuế đánh vào các khoản đầu tư, vào các công cụ sản xuất thì một doanh nghiệp có còn đủ sức để « đầu tư cho tương lai nữa hay không » ?
Ở cấp vĩ mô, chính phủ Pháp liệu có thể đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu hay sẽ nhường tất cả các sân chơi này lại cho Mỹ, cho Trung Quốc và một số đối tác trong Liên Hiệp Châu Âu ?
Cử tri Pháp không sợ phải cọ sát với thị trường lao động ?
Trong ba tuần vận động tranh cử vừa qua không thấy cử tri Pháp lo lắng vì thất nghiệp vẫn còn ở ngưỡng trên 7 %, thấp nhất so với hai đời tổng thống tiền nhiệm của Emmanuel Macron, nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao với với nước Đức (5,8 %) hay Ý (6,9 %) sát cạnh.
Không thấy RN và NFP đề xuất những giải pháp nào để tạo thêm công việc làm cho người dân. Cũng không thấy các bên đề cập đến chủ đề tăng cường sự tự chủ của nước Pháp về mặt công nghiệp, hay để bắt kịp công nghệ cao của Mỹ, để bớt lệ thuộc vào hàng của Trung Quốc …
Chỉ nghe thấy bên đảng cực hữu của gia đình Le Pen đòi « ngừng trợ cấp cho ngành năng lượng tái tạo », ngừng phát triển điện gió. Còn liên minh cánh tả -trong đó có đảng xanh EELV thì đòi đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân ….
Căn cứ vào những yếu tố vừa trình bày, có thể hiểu như là cử tri Pháp không quan tâm đến chuyện đầu tư cho tương lai, không còn xem việc phải tạo thêm công việc làm giải quyết thất nghiệp là một ưu tiên, và cũng đã phần nào quên mất rằng, kinh tế có thịnh vượng là cũng nhờ vào cả khu vực sản xuất chứ không thể chỉ trông chờ vào sức tiêu thụ của người dân.
Không có các doanh nghiệp hay khi mà các cơ sở sản xuất bị dời đi nơi khác, thì người lao động Pháp mất việc làm và chỉ còn có thể trông chờ vào trợ cấp xã hội mà sống.
Dù vậy, ba chuyên gia kinh tế của Pháp, giáo sư Philippes Aghion trường Collège de France, Jean Pisani Ferrry viện nghiên cứu Bruegel tại Bỉ và Alexandre Roulet học viện châu Âu INSEAD trên báo Les Echos (02/07/2024) ghi nhận, giữa chương trình kinh tế của RN và NFP thì họ thấy rằng tập hợp cánh tả có phần « ít nguy hiểm hơn » bởi lý do đơn giản, RN có lập trường « dân tộc chủ nghĩa, bài châu Âu ». Trái lại NFP là một tập hợp gồm 4 đảng, mà phần lớn vẫn gắn bó với Liên Âu và « khối này » không có cùng một tiếng nói : NFP sẽ phải uyển chuyển trong cách áp dụng chính sách kinh tế ... họ đề xuất.
Tue, 02 Jul 2024 - 178 - Nga-Bắc Triều Tiên, một mối hợp tác kinh tế « không giới hạn »
2024 kinh tế Bắc Triều Tiên có triển vọng tăng trưởng trở lại sau 4 năm thụt lùi nhờ mở rộng hợp tác với Nga ? Vế kinh tế và thương mại ít được nhắc đến trong chuyến đi Bình Nhưỡng của tổng thống Vladimir Putin. Mọi chú ý tập trung vào điều khoản « hỗ trợ phòng thủ chung », bằng « mọi phương tiện » và « không chậm trễ » tức không chỉ giới hạn về mặt quân sự trong « hiệp ước đối tác chiến lược » được lãnh đạo hai nước ký kết hôm 19/06/2024.
1 tỷ đô la cho Bắc Triều Tiên
Theo giới quan sát, « hiệp ước đối tác chiến lược » mặc nhiên cho phép đôi bên chính thức hoá các khoản giao dịch, mua bán vũ khí vào lúc từ mùa hè 2023, đã rộ lên tin tình báo Bắc Triều Tiên cung cấp đạn dược và có thể là cả tên lửa đạn đạo cho Nga để phục vụ trên các mặt trận Ukraina. Trong báo cáo được công bố đầu năm 2024, hãng tin Mỹ Bloomberg thẩm định nhờ các khoản giao dịch này mà Bình Nhưỡng đã thu về được « tối thiểu một tỷ đô la »
Tại một quốc gia 60 % dân số sống dưới ngưỡng nghèo khó và thường xuyên thiếu thương thực, thực phẩm, Bắc Triều Tiên ắt hẳn đã trông cậy nhiều vào mối quan hệ « đối tác chiến lược » vừa ký kết với Nga tuần trước để vực dậy kinh tế. Thế nhưng các tài liệu chính thức của Matxcơva và Bình Nhưỡng cũng như truyền thông quốc tế ít chú trọng vào các các chương trình hợp tác song phương trong các lĩnh vực như thương mại, nông nghiệp hay năng lượng.
Đài phát thanh Đức Deutsche Welle hôm 18/06/2024 trích dẫn kinh tế gia Anwita Basu chuyên phân tích về rủi ro của các quốc gia trên thế giới của Fitch Solutions, chi nhánh của công ty thẩm định tài chính Mỹ Fitch ghi nhận : Thỏa thuận quân sự với Nga là chiếc phao cứu tăng trưởng của Bắc Triều Tiên. Nhờ các hợp đồng chuyển giao đạn dược cho Matxcơva, GDP của Bắc Triều Tiên năm nay hy vọng tăng 1 %.
Dưới tác động đại dịch Covid-19 và các biện pháp trừng phạt ban hành từ 2016, tổng sảm phẩm nội địa Bắc Triều Tiên năm 2020 giảm 4,5 %.
Đến nay Trung Quốc là cửa ngõ giao thương chính nhưng trong ba năm liền Bắc Kinh đóng cửa biên giới để chống dịch, cộng thêm với lệnh cấm suất khẩu than đá Bắc Triều Tiên sang Trung Quốc, mãi đến năm 2023, tổng kim ngạch trao đổi mậu dịch hai chiều mới tìm lại được mức của hồi cuối 2018.
Trả lời ban tiếng Việt RFI Barthélémy Courmont, giám đốc nghiên cứu chương trình châu Á –Thái Bình Dương Viện Nghiên Cứu Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS nhìn nhận đối với Bắc Triều Tiên vế kinh tế và lương thực rất quan trọng nhưng đón được Vladimir Putin tại Bình Nhưỡng trước hết là một thắng lợi ngoại giao đối với ông Kim Jong Un.
« Chắc chắn đôi bên đàm phán về hợp tác kinh tế, nhưng chúng ta chưa biết rõ về những gì đã được thông qua nhân chuyến viếng thăm Bình Nhưỡng vừa qua của ông Putin. Dù vậy, ngả về phía Nga là một thắng lợi ngoại giao rất lớn của Bắc Triều Tiên : trong chớp mắt, Bắc Triều Tiên bắt cộng đồng quốc tế phải chú ý đến mình. Bình Nhưỡng cũng giảm bớt phụ thuộc vào Trung Quốc. Chúng ta biết rằng Bắc Triều Tiên thiếu hụt lương thực kinh niên, kinh tế kiệt quệ do các biện pháp trừng phạt cộng đồng quốc tế ban hành từ hàng chục năm nay … Bắt tay với Putin, Kim Jong Un có thể trông chờ vào dầu hỏa, lương thực, phân bón của Nga. Nhưng ưu tiên của Bình Nhưỡng là giải quyết vấn đề thiếu hụt lương thực thực phẩm và khởi động lại các hoạt động kinh tế bị tê liệt từ sau đại dịch Covid. Lương thực là một thách thức thường trực đối với quốc gia này ».
Kinh tế, một phần trong hiệp ước đối tác chiến lược song phương
Một điểm nhấn khác : Hiệp ước đối tác chiến lược giữa Bắc Triều Tiên và Nga quy định đôi bên có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt, bằng mọi phương tiện khi một trong hai phía bị tấn công. Điều đó bao hàm cả các khoản hỗ trợ về mặt kinh tế. Cũng Deutsche Welle nhắc lại ngành công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên cũng là « một cột trụ kinh tế » của nước này. Gần 2 triệu trên tổng số 26 triệu dân Bắc Triều Tiên làm việc trong lĩnh vực nhạy cảm nói trên, vừa để phục vụ quân đội quốc gia, vừa để cung cấp cho một số « nước bạn » từng thuộc Liên Xô cũ hay tại châu Phi. Đương nhiên là để sản xuất vũ khí Bắc Triều Tiên cần mua vào một số phụ tùng và đến nay là qua trung gian của hai đồng minh đắc lực là Trung Quốc và Iran.
Hợp tác « tấn công trên mạng »
Thêm một yếu tố khác Bắc Triều Tiên và Nga dễ dàng cộng tác mà đương nhiên là không thể ghi vào văn bản của hiệp ước đối tác chiến lược song phương là hoạt động tin tặc. Chuyên gia của Fitch Solutions, Anwita Basu ghi nhận Nga và Bắc Triều Tiên cùng «nuôi dưỡng một đội quân hàng ngàn người chỉ chuyên tấn công trên mạng nhắm vào các mục tiêu của phương Tây ». Đây là một lĩnh vực hợp tác theo đuổi các mục tiêu quân sự và kinh tế mà đôi bên có thể hỗ trợ lẫn nhau.
Bình Nhưỡng bớt phụ thuộc vào Bắc Kinh
Trung Quốc đánh giá thế nào về mối liên hệ ngày càng thắm thiết giữa Bắc Triều Tiên và Nga ? Với Matxcơva, Bắc Kinh đã thiết lập mối quan hệ « vững như bàn thạch », còn đối với Bình Nhưỡng, từ trước tới nay Trung Quốc luôn là cửa ngõ giao thương quan trọng nhất. Theo nhà nghiên cứu Barthélémy Courmont, liên minh Nga-Bắc Triều Tiên đặt Kim Jong Un trong thế mạnh hơn bao giờ hết, kể cả trong đối thoại với Bắc Kinh :
« Đến nay Trung Quốc và Bắc Triều Tiên có mối quan hệ hữu hảo nhưng Bắc Kinh không tán đồng những hoạt động ồn ào của Bình Nhưỡng trong lĩnh vực hạt nhân và đạn đạo. Trung Quốc không là một đồng minh của Bắc Triều Tiên, mà chỉ là điểm tựa của chế độ Kim Jong Un về kinh tế, về thương mại và nhất là để khai thác tài nguyên của Bắc Triều Tiên. Ông Tập Cận Bình không muốn Kim Jong Un khuấy động tình hình, đe dọa ổn định ở bán đảo Triều Tiên ngay sát cạnh cửa ngõ Trung Quốc. Với sự yểm trợ của Nga, Bắc Triều Tiên có thể phá vỡ nguyên trạng kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc ».
Kim Jong Un đe dọa thịnh vượng chung châu Á ?
Cũng Barthélémy Courmont, Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược, IRIS của Pháp nhìn rộng ra hơn và ông cho rằng mối « đối tác chiến lược » Nga-Bắc Triều Tiên đang làm thay đổi cục diện của toàn khu vực một khi mà Matxcơva đã đứng hẳn về phía Bình Nhưỡng, chấm dứt mọi nỗ lực « phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên » :
« Điểm then chốt trong hợp tác này là một sự giúp đỡ lẫn nhau trong trường hợp một trong hai bên liên quan bị xâm lấn. Nói cách khách, Bắc Triều Tiên chính thức hỗ trợ Nga trong cuộc chiến ở Ukraina và như vậy mặc nhiên cung cấp vũ khí cho Matxcơva và sẽ còn tích cực hơn nữa để giúp Nga. Đối lại trong trường hợp căng thẳng gia tăng tại bán đảo Triều Tiên thì Nga cũng sẽ can thiệp, tiếp sức với Bình Nhưỡng. Như vậy ở đây Nga không còn đóng vai trò trung gian mà đã quay trở lại với vị trí như thời Liên Xô tức là lại trở thành ‘đồng minh’ của Bắc Triều Tiên. Kèm theo đó là những hệ quả rất nghiêm trọng, chẳng hạn như là tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc hay nếu như nổ ra xung đột vũ trang trên bán đảo Triều Tiên. Đấy mới là điểm quan trọng trong thỏa thuận này,bởi xét cho cùng, việc Bình Nhưỡng hỗ trợ Matxcơva trong chiến tranh Ukraina đã được thông qua từ cuộc gặp lần trước vào mùa thu năm ngoái giữa Vladimir Putin và Kim Jong Un ».
« Nga dùng Bắc Triều Tiên để gây rối tại Đông Bắc Á »
Trong cuộc trả lời dành cho RFI tiếng Việt chuyên gia Pháp Barthélémy Courmont nhiều lần nhấn mạnh : phương Tây từng lo ngại thấy Bắc Triều Tiên cung cấp « cả trăm contener đạn dược cho Nga », châm thêm củi lửa cho cỗ máy chiến tranh của tổng thống Putin tại Ukraina nhưng vũ khí Bắc Triều Tiên « không làm thay đổi tương quan lực lượng trên chiến trường Ukraina ». Tương tự như vậy những thỏa thuận về thương mại hay kinh tế rất có thể là đã được các phái đoàn hai nước thảo luận với nhau từ trước khi tổng thống Nga công du Bắc Triều Tiên… Vả lại việc thông báo mở rộng hợp tác với Bắc Triều Tiên về năng lượng, về y tế hay nông nghiệp, không là điều quan trọng nhất trong mắt tổng thống Putin.
« Nga hài lòng nhận được đạn dược của Bắc Triều Tiên để tiếp sức cho chiến tranh Ukraina nhưng vũ khí của Bắc Triều Tiên không làm đảo ngược tình hình trên chiến trường, thành thử đối với Matxcơva điểm quan trọng nằm ở chỗ, liên kết với Bình Nhưỡng cho phép Matxcơva củng cố vị thế ở Châu Á Thái Bình Dương, tìm lại vị trí đã đánh mất tại một vùng mà ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc ngày càng lớn. Với thỏa thuận quân sự này, qua trung gian Bắc Triều Tiên, Nga có thể gây rối trong khu vực, gây áp lực với các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc. Đây là hai quốc gia châu Á duy nhất lên án và trừng phạt Matxcơva xâm chiếm Ukraina ».
Thịnh vượng của châu Á một phần được đặt tại Matxcơva
Đây cũng là quan điểm của giáo sư Alexander Clarkson, trường King’s College tại Luân Đôn. Không chỉ với phương Tây, mà cả Bắc Kinh Putin qua việc bắt tay với Kim Jong Un muốn chứng minh rằng, Nga có khả năng gây rối ở bán đảo Triều Tiên, đó là điều mà cả Mỹ và các đồng minh đông bắc Á cũng như Trung Quốc cùng không mong muốn.
Đâu đó tổng thống Nga muốn nhắc nhở cộng đồng quốc tế rằng, chìa khóa thịnh vượng của khu vực châu Á Thái Bình Dương phần nào đang được đặt ở Matxcơva. Trong chiều hướng đó, viễn cảnh Nga giúp Bắc Triều Tiên về công nghệ tên lửa đạn đạo, về kỹ thuật phóng vệ tinh do thám, về công nghệ tàu ngầm … có nguy cơ khuynh đảo thế cân bằng và đe dọa sự thịnh vương chung của châu Á …
Từ cuối thập niên 1940 Liên Xô đã luôn sát cánh với Bắc Triều Tiên hỗ trợ mạnh mẽ chế độ của Kim Nhật Thành về mặt kinh tế. Đến đầu thập niên 1990 sau khi Liên Xô sụp đổ, bản thân nước Nga tự tìm một hướng đi mới về kinh tế và đã có phần lơ là với đối tác Bắc Triều Tiên. Nhưng khi cần khẳng định vai trò của Matxcơva tại Đông Bắc Á, thì điện Kremlin luôn dễ dàng làm sống lại những mối thâm giao trong quá khứ để thúc đẩy trở lại các chương trình hợp tác kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tue, 25 Jun 2024 - 177 - Eurosatory 2024: Tủ kính công nghiệp vũ khí của Pháp có gì mới ?
Tại Hội Chợ Quốc Tế về Quốc Phòng và An Ninh Eurosatory2024, tổ chức ở ngoại ô Paris, ngành công nghệ quốc phòng Pháp có gì mới ? Các nhà sản xuất Pháp, nguồn xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai trên thế giới, muốn gấp rút giành lại một phần thị trường châu Âu vào lúc mà buôn bán vũ khí nội khối chỉ chiếm 20 % . Phần còn lại là bán cho các « đối tác bên ngoài », chủ yếu là Mỹ và gần đây nhất là Hàn Quốc.
Để thu hẹp khoảng cách với các đối thủ lớn trên thị trường xuất nhập khẩu vũ khí, hội chợ Eurosatory là cơ hội để các nhà sản xuất của Pháp khoe sản phẩm mới. Các công ty khởi nghiệp, các hãng tư nhân được mời tham gia đông đảo, cùng với các tập đoàn trực tiếp được bộ Quân Lực Pháp hỗ trợ.
RFI tiếng Việt đã dừng chân tại khu trưng bày của bộ Quân Lực Pháp và xin được giới thiệu một vài « phát minh mới, một số sản phẩm mới » đã ít nhiều được Tổng Cục Vũ Khí Khí Tài DGA và Cơ Quan đặc trách về những Phát Minh trong lĩnh vực Quốc Phòng AID hỗ trợ.
Drone trinh sát
Đập vào mắt khách tham quan là chiếc drone trắng Patroller, trông tựa như một chiếc phi cơ nhỏ, đang sải cánh, trên một chiều rộng 18 mét. Giám đốc Tổng Cục Vũ Khí Khí Tài, phụ trách chương trình phát triển drone chiến lược SDT giới thiệu drone nặng 1,2 tấn. Đây là một công cụ thu thập thông tin tình báo phục vụ cho lực lượng Bộ Binh, hoạt động ở độ cao 5.000 mét, tự túc trong vòng 14 giờ đồng hồ và có khả năng bay « xa nhà đến 250 km » :
« Drone này là phương tiện cho phép thu thập thông tin, quan sát tình hình trên chiến trường và từ đó hướng dẫn một số những thao tác cần làm. Drone được trang bị hai thứ đặc biệt : một quả cầu tròn ở dưới bụng và một loạt radar được gắn trên thân drone. Quả cầu này mang theo camera quan sát, sử dụng tia hồng ngoại để phát hiện mọi vật thể phát nhiệt. Còn radar thì có tầm quan sát xa đến 20-30 cây số và nhất là có khả năng theo dõi các mục tiêu di động ».
Ở vào thời điểm công nghệ thông tin chiếm một vị trí quan trọng, các vật thể kết nối vừa là một điểm mạnh, nhưng cũng có thể là những kẽ hở dễ bị nhiễu sóng, bị tấn công tin học : drone Patroller do tập đoàn SAFRAN, con chim đầu đàn của Pháp trong các lĩnh vực từ hàng không không gian, quốc phòng chế tạo, có lo bị tin tặc kiểm soát hay không ? Giám đốc chương trình SDT lạc quan trả lời :
« Nguy cơ drone này bị hacking thì không. Tuy nhiên trong trường hợp có quá nhiều sự cố hay bị nhiễu sóng chiếc Patroller tự động quay về căn cứ. Chúng tôi không lo rủi ro mất kiểm soát loại drone này ».
Drone Patroller trong khuôn khổ chương trình chế tạo drone chiến thuật SDT là một sản phẩm mới sắp được chuyển giao cho lực lượng Bộ Binh và đã có hợp đồng để trang bị cho Hy Lạp, một thành viên Liên Âu và NATO.
Nanotrack
Chính trong thời đại công nghệ kỹ thuật số và công nghệ thông tin càng lúc càng chiếm một vai trò quan trọng trong các cuộc xung đột, và nhất là xung đột cường độ cao, như Emmanuel Chiva thuộc bộ Quân Lực Pháp ghi nhận, thì những công nghệ cho phép thu ngắn nhất thời gian thu thập và chuyển tải những thông tin lại càng đóng vai trò trọng yếu. Chính vì vậy mà ở gian trưng bày NANOTRACK, Jean Yves Cadorel đại diện cho tập đoàn 3ZA Engineering, giới thiệu về một « sản phẩm mới ». Công ty có trụ sở tại thành phố Orléans, nằm trên dòng sông Loire, miền tây nước Pháp. Trong tủ kính trưng bày của hãng này, có những thiết bị chỉ bằng hai ngón tay thế nhưng tổng giám đốc của hãng Jean Yves Cadorel giải thích nhờ công nghệ Golden Modulation, mỗi thiết bị nhỏ xíu phát sóng đi xa đến « hàng trăm cây số » thay vì chỉ vài chục cây số như hiện tại và công nghệ mới này đang trong giai đoạn « thử nghiệm », chừng 12 tháng nữa sẽ được thương mại hóa.
« Về mức tự chủ thì đây là công nghệ chỉ cần có ¼ watt để phát đi hay thu thập thông tin cách xa hàng trăm cây số. Đây là những vật thể rất nhỏ cho phép chúng ta cấy những con bọ để thu thập thông tin cũng như là những thiết bị để phát đi những thông tin vừa nhận được. Golden Modulation là công nghệ rất hiệu quả trong việc trao đổi thông tin ở những vị trí cách nhau rất, rất xa (trong tương lai là 360 km thay vì 40km như hiện tại), đây là một công nghệ an toàn ở chỗ không sợ bị đối phương làm nhiễu sóng. Chính vì thế mà công nghệ mới này hoàn toàn có chỗ đứng trong lĩnh vực quân sự. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể khai thác Golden Molulation trong các mục tiêu dân sự, thí dụ như là để giám sát mực nước sông ngòi, đề phòng các vụ cháy rừng, hay trong mục tiêu bảo vệ môi trường … »
AI và công tác bảo vệ an ninh quân sự
Nói về những sản phẩm « lưỡng dụng » phục vụ cả trong các sinh hoạt dân sự và quân sự, công ty khởi nghiệp XXII -22 của François Mattens mới vừa hoạt động từ 2015 và trụ sở tại Paris vừa giành được một hợp đồng với bên bộ Quân Lực Pháp để tăng cường an ninh cho các căn cứ quân sự của Pháp.
« Trong lĩnh vực dân sự hiện có hai thí dụ cụ thể : một là chúng tôi sử dụng trí tuệ nhân tạo để quan sát lượng khách ra vào các trung tâm thương mại, các cửa hàng, thời điểm nào đông người nhất. Khách hàng ở lại trong hiệu bao nhiêu lâu, họ chú ý đến những mặt hàng nào … Đó là những thông tin cho phép nắm bắt thị hiếu của khách hàng chính xác hơn và thích nghi với các sở thích của người tiêu dùng… Một thí dụ thứ nhì là AI được sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp. Ảnh và video thu được cho phép nâng cao năng suất của một số nhà máy sản xuất.
Trong lĩnh vực quân sự, công ty vừa ký hợp đồng với Bộ Quân Lực để bảo vệ một số cơ sở của quân đội. Đây là nơi có hàng trăm km hàng rào, có vài chục camera giám sát. Tất cả những hình ảnh thu được từ camera cần phải được phân tích. Sức người không làm xuể. Nếu như chúng ta sử dụng trí tuệ nhân tạo, thì tất cả những hình ảnh đó đều được phân tích một cách trực tiếp. Như vậy mọi hiện tượng khả nghi hay bất thường đều sẽ được phát hiện ngay. Các bên liên quan như vậy có thể thẩm định về mức độ rủi ro và nhất là phải phản ứng như thế nào trước hoàn cảnh đó ».
Chiến tranh Ukraina và Eurosatory
Điểm nhấn của hội chợ Eurosatory năm nay là công nghệ kết nối, công nghệ robot. Trong bối cảnh chiến tranh Ukraina mà theo các giới quan sát, gần 1/3 lãnh thổ nước này đã bị Nga gài mìn, ông Joachim Marais đại diện cho tổ chức mang tên CAPACITES, trực thuộc Đại Học Nantes đã mang robot gỡ mìn đến triển lãm.
« Đây là loại robot RSM để dò mìn, gắn rất nhiều những cảm biến ở phía trước để phát hiện những vật thể bị chôn dưới mặt đất, xác định xem đấy có phải là mìn hay không và chỉ một khi có thông tin rằng vật thể liên quan là mìn, thì nhân viên phá miền mới can thiệp. Cái mới ở đây là khả năng phân tích của robot từ những thông tin thu thập được nhờ các hệ thống radar, và camera gắn trong thân robot. Điều đó có nghĩa rằng đây là công cụ cho phép tăng cường đáng kể mức độ bảo đảm an toàn cho con người »
Phần mềm phát hiện vết nứt bên trong áo chống đạn
Bảo vệ an toàn, và sinh mạng cho các quân nhân, cho nhân viên phục vụ trên chiến trường cũng là mục tiêu của Sensein. Công ty hoạt động tại Caudan, vùng Bretagne, tây bắc nước Pháp mang một công nghệ mới đến hội chợ Eurosatory2024. Morgann Jacob chịu trách nhiệm về dự án dùng hệ thống liên lạc NFC để phát hiện những vết nứt ở bên trong áo chống đạn. Anh giải thích :
« Hiện tại phương tiện duy nhất để phát hiện xem rằng những tấm vật liệu gốm ở bên trong báo chống đạn có bị vỡ, nứt hay không là phải đưa tất cả chúng về một nơi có trang bị máy X quang. Điều đó tốn kém về thời gian và đòi hỏi một số phương tiện và cũng sẽ là rất bất tiện trên chiến trường … Với công nghệ mới, ở bất cứ nơi nào, chúng ta có thể phát hiện áo chống đạn có bị hư hại gì ở bên trong nay không, đơn giản là chúng tôi sử dụng hệ thống liên lạc NFC và một phần mềm. Chị thấy đây này : trong chưa đầy 10 giây, chúng ta phát hiện là chiếc áo này không bị hư hại ở bên trong, tức là có mức độ an toàn tốt. Trái lại chiếc áo phía bên kia thì không, do tấm gốm ở bên trong đã bị nứt » …
Một phát minh khác trong khu triển lãm của bộ Quân Lực Pháp năm này là xe máy Quad de Renseignement furtif -được sử dụng trong công tác thu thập thông tin tại các vùng chiến sự. Mô-tơ của xe vừa dùng điện và xăng. Đây là một phát minh của đại tá Nicolas. Ông rất tự hào giải thích, nhờ công nghệ mới này mà xe máy được xếp vào loại xe « tàng hình »do ít gây tiếng ồn, không thu thút chú ý của đối phương.
Vào lúc trên toàn thế giới đang diễn ra 59 cuộc xung đột vũ trang, 28 trong số ấy đang hoành hành tại châu Phi, nhưng cộng đồng quốc tế tập trung nhiều vào xung đột tại Gaza và nhất là vào cuộc chiến ở Ukraina. Trong cuộc xung đột này, Mỹ và châu Âu không ngừng cung cấp vũ khí, đạt dược và các hệ thống phòng thủ cho Ukraina. Chính vì thế mà ở khu triển lãm các hệ thống pháo tự hành Caesar của Pháp, Leopard của Đức lúc nào cũng đông kín người. Tương tự như vậy gian trưng bày xe tăng và thiết giáp của Pháp lớp Scorpion với những loại như Jaguar, Serval hay Griffon cũng rất được chiếu cố.
Tue, 18 Jun 2024 - 176 - Hành Lang Kinh Tế Trung Quốc –Pakistan : Bắc Kinh trước thách thức Hồi giáo cực đoan Nam Á
Thủ tướng Pakistan Shehbaz Sharif vừa kết thúc chuyến công du Trung Quốc trong 5 ngày (04-08/06/2024) với trọng tâm là khởi động giai đoạn 2 công trình CPEC-Hành Lang Kinh Tế Trung Quốc-Pakistan, nối liền vùng tự trị Tân Cương với tỉnh Baloutchistan mở ra Ấn Độ Dương. Chính vì lợi thế này mà Bắc Kinh đã đầu tư 62 tỷ đô la vào dự án và nóng lòng muốn thấy CPEC nhanh chóng cất cánh sau hơn một chục năm giậm chân tại chỗ vì những bất ổn chính trị và an ninh tại Pakistan.
Hành Lang Kinh Tế Trung Quốc -Pakistan -CPEC bao gồm những gì, đâu là lợi ích về kinh tế và nhất là chiến lược của mỗi bên ? Đang mang nợ 100 tỷ đô la mà 30 % trong số đó do Trung Quốc nắm giữ, thủ tướng Shehbaz Sharif kỳ vọng nhiều vào hành lang kinh tế này để phát triển đất nước, vực dậy một nền kinh tế bên bờ vực thẳm bị thiên tai và các nhóm khủng bố hoành hành.
Nhưng liệu Islamabad có thể làm được gì để bảo đảm an ninh cho các công trường của Trung Quốc ? Để trả lời các câu hỏi trên, RFI tiếng Việt tham khảo ý kiến của nhà nghiên cứu Laurent Pinguet, chuyên gia về khu vực Himalaya, Đài Quan Sát Pháp về Dự Án Con Đường Tơ Lụa Mới (OFNRS).
CPEC là một trong những trục chính của dự án Một Vành Đai Một Con Đường, hay còn được gọi là Con Đường Tơ Lụa Mới, Bắc Kinh khởi xướng từ 2013. Hành Lang Kinh Tế Trung Quốc Pakistan xuất phát từ thành phố Kashgar, Tân Cương, đến thủ đô Islamabad và điểm đến cuối cùng là thành phố cảng Gwadar miền nam Pakistan, nhìn ra Biển Ả Rập -Ấn Độ Dương.
Gwadar là cảng nước sâu, từ 2015 Pakistan đã cho Trung Quốc « thuê trong 40 năm ». Bắc Kinh có tham vọng đến năm 2055 biến thành phố nghèo nàn này thành một lá phổi kinh tế quốc tế trong khu vực, với nhiều công trình đồ sộ như một sân bay quốc tế, bờ kè dài hơn 50 km, một khu vực trải rộng trên hơn 900 hecta nơi mà các doanh nghiệp được hưởng nhiều khoản ưu đãi về thuế khóa để phát triển....
Trả lời RFI Việt Ngữ, nhà Laurent Pinguet trước hết nói đến những lợi ích về kinh tế của công trình :
« Về phương diện kinh tế, hành lang này cho phép nhiều công ty Trung Quốc bắt rễ vào Pakistan, một thị trường với hơn 230 triệu dân. Theo bảng xếp hạng hồi năm 2021 của Fortune Global 500, gần một nửa các doanh nghiệp Trung Quốc trong danh sách này hiện diện tại Pakistan, chủ yếu trong các lĩnh vực như năng lượng, công nghệ thông tin. Bên cạnh đó có một số hãng xe hơi và các tập đoàn xây dựng. Đối với Pakistan, đây là cơ hội để đem lại nhiều đổi mới và hiện đại hóa kinh tế tại quốc gia Nam Á này. Pakistan cần phát triển hệ thống cầu đường, cần xây thêm đập thủy điện … ».
Tránh sự nhòm ngó của Mỹ
Trong bài nghiên cứu của Đài Quan Sát về Dự Án Con Đường Tơ Lụa Mới (OFNRS) chuyên gia Pinguet nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của « cánh cổng mở ra Ấn Độ Dương », đến «sự gần gũi về địa lý với eo biển Hormuz nơi 40 % dầu hỏa của thế giới đi qua". Làm chủ hay được tuyến đường giao thông này cho phép « thu ngắn lộ trình 10.000 km khi cần đưa hàng của Trung Quốc sang các nước trong vùng Vịnh, tránh phải đi qua eo biển Malacca, giảm thiểu mật đô giao thông trên những tuyến đường hàng hải có sự hiện diện của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ và nhất là tránh phải đi qua một số căn cứ quân sự của Mỹ có thể muốn giám sát tàu thuyền của Bắc Kinh ».
… Và bắt rễ vào một vùng đất giàu tài nguyên của Pakistan
Không phải tình cờ mà dự án Hành Lang Kinh tế Trung Quốc -Pakistan kết thúc tại cảng Gwadar trong vùng Baloutchistan : Gwadar còn là cửa ngõ dẫn vào các mỏ khí đốt còn trinh nguyên tại một vùng đất có diện tích tương đương với 43,6 % của cả nước, trải rộng từ miền tây và tây nam Pakistan. Baloutchistan có nhiều quặng mỏ : đây là nơi có 1 trong 5 mỏ vàng lớn nhất thế giới ; khí đốt địa phương bảo đảm 36 % nhu cầu tiêu thụ cho cả nước ; 80 % dầu hỏa Pakistan được khai thác từ các giếng dầu ở Baloutchistan. Nhiều mỏ đồng, chì, uranium hay than đá còn đang chờ được khai thác …
Điều đó không cấm cản Baloutchistan là vùng đất nghèo nhất của Pakistan, 96 % dân số trong vùng sống dưới ngưỡng nghèo khó, tức với chưa đầy 2 đô la thu nhập mỗi ngày.
CPEC và những tính toán về địa chính trị của Bắc Kinh
Năm 2013 ngay khi khởi động dự án Con Đường Tơ Lụa thế kỷ 21, Bắc Kinh đã đặc biệt quan tâm đến Pakistan vì những tính toán địa chính trị. Đối với Islamabad vốn có nhiều hiềm khích và tranh chấp lãnh thổ với nước láng giềng sát cạnh là Ấn Độ, thì khi được đề nghị tham gia hành lang kinh tế CPEC chẳng khác nào « buồn ngủ mà gặp chiếu manh ». Laurent Pinguet giải thích :
« Hành lang này cho phép Trung Quốc mở được cánh cửa xuyên ra biển Ả Rập, dễ tiếp cận hơn với các nguồn năng lượng dầu khí, tránh được phần nào Ấn Độ và nhất là ít bị phụ thuộc vào Biển Đông trong các tuyến đường giao thương (...) Hơn nữa nhờ hợp tác với Pakistan trong khuôn khổ dự án CPEC Trung Quốc tăng cường hiện diện tại một số vùng đang có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ thập niên 1960 như trong vùng Aksai Chin, gần Tây Tạng và thung lũng Shaksgam. Đây chính là lý do vì sao Ấn Độ đã ba lần tẩy chay hội nghị quốc tế Con Đường Tơ Lụa Mới.
Về phía Pakistan, CPEC cho phép Islamabad có một điểm tựa vững chắc trong trường hợp phải đối đầu với Ấn Độ. Đây là một mối hợp tác mang tính sống còn đối với chính quyền Pakistan. Trong khu vực này, từ lâu nay Trung Quốc là đồng minh có trọng lượng duy nhất của Pakistan. Tôi muốn nói đến những hỗ trợ của Bắc Kinh từ thập niên 1970 giúp Islamabad chế tạo bom nguyên tử, làm đối trọng với cường quốc hạt nhân sát cạnh là Ấn Độ. Dự án này cũng cho phép Pakistan củng cố vị thế trên vấn đề tranh chấp chủ quyền với New Delhi ở vùng Cachemire ».
Cũng trong cuộc trả lời dành cho RFI Việt ngữ nhà nghiên cứu Pháp Laurent Pinguet lưu ý thêm là CPEC cho phép Trung Quốc tăng cường hiện diện và kiểm soát chặt chẽ hơn ngay hai vùng lãnh thổ của chính mình là Tây Tạng và Tân Cương. Tây Tạng được mệnh danh là bồn nước của châu Á mà Trung Quốc cần kiểm soát. Còn Tân Cương là khu tự trị với đa số dân cư theo đạo Hồi. Cũng chính vì dự án này mà Pakistan, « tuy là quốc gia Hồi Giáo nhưng hoàn toàn im lặng trước việc Bắc Kinh đàn áp người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Islamabad còn đồng ý trục xuất những người Duy Ngô Nhĩ về Trung Quốc xin tị nạn tại Pakistan ».
CPEC trước thách thức của các nhóm Hồi giáo cực đoan tại Pakistan
Trong chuyến công du Trung Quốc dài ngày vừa qua, thủ tướng Pakistan Shehbaz Sharif đã chứng kiến lễ khởi công giai đoạn 2 của dự án CPEC, mở rộng hành lang kinh tế này đến nhiều lĩnh vực từ « phát minh đến năng lượng xanh… ». Islamabad và Bắc Kinh ký kết « hàng chục » thỏa thuận nghi nhớ nhưng theo hãng tin Anh Reuters, trên thực tế Trung Quốc đã không đặt bút ký thêm bất kỳ một hợp đồng đầu tư nào mới vào Pakistan. Điều này phản ánh một sự chậm trễ trong hợp tác song phương, một sự tê liệt trong dự án Hành Lang Kinh Tế gắn kết hai quốc gia này. Laurent Pinguet, đài quan sát OFNRS của Pháp phân tích :
« Dự án dậm chân tại chỗ tại vì theo nhiều nhân chứng, ngay tại Gwadar khu vực được coi là mũi nhọn của CPEC, đường phố vẫn còn vắng tanh, tỷ lệ nghèo khó cao ngút ở ngưỡng 40 % và bên cạnh đó thành phố này đang ngồi trên một núi nợ khổng lồ. Tình trạng mất an ninh là lý do vì sao dự án không thể cất cánh. Các nhà đầu tư nản lòng. Gần đây, hồi tháng 3 vừa qua, một vụ khủng bố tự sát nhắm vào một công trường đã cướp đi sinh mạng của 5 kỹ sư Trung Quốc. Vụ tấn công nói trên do quân Taliban tại Pakistan TTP (Tehrik-e-Taliban Pakistan)tiến hành.
Tình trạng mất an ninh đó xuất phát từ nhiều yếu tố : một là do tại Pakistan có nhiều nhóm Hồi giáo cực đoan muốn lật đổ chính phủ ở Islamabad và chủ trương Pakistan cần áp dụng triệt để luật Hồi giáo rất khắt khe Charia. Lý do thứ nhì là có những phong trào nổi dậy ở bang Balouchistan. Dân cư tại đây là một sắc tộc thiểu số họ truy bức và bị cướp đất đai cho các dự án phát triển CPEC. Lý do thứ ba là Islambad đang sợ rằng dân tộc Pashtoune ở phía tây bắc Pakistan cũng sẽ đi theo con đường bạo động của người Balouchistan. Cuối cùng là thành phần Taliban từ Afghanistan tràn sang và định cư hẳn ở Pakistan. Số này có khuynh hướng tham gia các tổ chức Hồi giáo cực đoan của Pakistan »…
Trung Quốc bị lôi vào vòng xoáy
Theo các thống kê chính thức tại Islamabad, năm 2023 đã có 129 vụ tấn công nhắm vào các cơ sở của Trung Quốc tại Pakistan, 82 % trong số đó do nhóm Taliban TTP và các tổ chức nổi dậy của thiểu số Baloutchistan tiến hành. Vẫn theo nghiên cứu của chuyên gia Pháp về khu vực chung quanh dẫy núi Himalaya, Laurent Pinguet trong mắt dân cư địa phương, các doanh nghiệp Trung Quốc đến đây hoạt động không để khai thác hay mở mang vùng lãnh thổ nghèo nàn nay cho Pakistan, mà mục đích là nhằm « cướp đi các nguồn tài nguyên của Baloutchistan ».
Từ 2019 các cơ sở của Trung Quốc đã nhiều lần bị tấn công. Đối với Pakistan, bài toán vãn hồi « an ninh » trên lãnh thổ Pakistan để trấn an các nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là Trung Quốc càng thêm nan giải từ khi quân Taliban trở lại cầm quyền ở Afghanistan. Chuyên gia Pháp Pinguet ghi nhận "từ 2021 số lần TTP tiến hành khủng bố trên lãnh thổ Pakistan tăng 60 % và các đợt khủng bố tự sát đã được nhân lên cấp 5 lần".
Tương lai nào cho CPEC ?
Bắc Kinh đã hết kiên nhẫn trước tình trạng bất ổn kéo dài tại Pakistan. Tháng 3 vừa qua ngoại trưởng Vương Nghị trong chuyến công du Islamabad đòi Pakistan bảo đảm an toàn cho các cơ sở và công trường của Trung Quốc. Lần này tại Bắc Kinh, chủ tịch Tập Cận Bình cũng đã nhắc lại điều này. Bắc Kinh thậm chí yêu cầu thủ tướng Sharif triển khai quân đội để bảo vệ các cơ sở của Trung Quốc. Theo chuyên gia Laurent Pinguet cho dù đe dọa khủng bố vẫn rất lớn nhưng cả đôi bên cùng không thể quay lưng lại với dự án Hành Lang Kinh Tế Trung Quốc –Pakistan :
« Theo tôi Pakistan và Trung Quốc không thể từ bỏ mối hợp tác này trong mọi trường hợp. Bằng mọi giá đôi bên phải gắn chặt với nhau. Đây mới chính là mối liên kết bất di bất dịch, nhất là vào lúc cả hai càng ngày càng có khuynh hướng tách rời khỏi cộng đồng quốc tế. Trong trường hợp của Trung Quốc, thì Bắc Kinh còn có Nga và vẫn duy trì đối thoại với phương Tây. Pakistan thực sự không biết phải trông vào ai nếu xảy ra xung đột với Ấn Độ hay với Afghanistan ngay sát cạnh. Islamabad chỉ có thể trông chờ vào Trung Quốc. Do vậy bằng mọi giá Pakistan phải duy trì dự án hành lang kinh tế với CPEC với Trung Quốc ».
Nợ nước ngoài của Pakistan lên tới 100 tỷ đô la, hơn 30 tỷ trong số đó là nợ Trung Quốc, lạm phát trên dưới 40 % và gần 40 % dân số sống trong cảnh bần cùng, chắc chắn là Islamabad không có nhiều lựa chọn và muốn trông thấy Hành Lang Kinh Tế Trung Quốc Pakistan là một chiếc phao để thoát nạn.
Một trong những phương án tái lập an ninh cho Pakistan theo giới phân tích, có thể là lôi kéo Afghanistan trong tay phe Hồi giáo Taliban vào dự án CPEC dưới sự giám sát của nhà chủ nợ là Trung Quốc. Song đây cũng không phải là chuyện dễ làm khi mà những hiềm khích giữa hai quốc gia Hồi giáo ở nam Á này còn quá lớn, đặc biệt là trên vấn đề hồi hương người hai triệu rưỡi người tị nạn Afghanistan đang sống trên lãnh thổ Pakistan.
Islambad có kế hoạch trục xuất 1,7 triệu người về nước để diệt trừ hiểm họa số này tham gia hàng ngũ khủng bố Taliban TTP … Tới nay Pakistan đã thực hiện được gần 1/3 mục tiêu đề ra và dương như « an ninh vẫn không được cải thiện ».
Tue, 11 Jun 2024 - 175 - Bầu cử châu Âu : Chính Sách Nông Nghiệp Chung qua lá phiếu của các nhà nông nổi giận
Với cuộc chiếm đóng đường phố tại biên giới Pháp-Tây Ban Nha hay việc nông dân Ba Lan biểu tình tại trụ sở của Liên Hiệp Châu Âu, trong hai ngày 03-04/06/2024 có lẽ nông dân châu Âu vẫn chưa nguôi giận sau sau « làn sóng nổi dậy » đầu năm 2024. Những nhượng bộ của châu Âu và ở cấp từng quốc gia thành viên dường như vẫn chưa đủ. Phiên bản được điều chỉnh của Chính Sách Nông Nghiệp Chung Châu Âu PAC vẫn chịu nhiều chỉ trích.
Cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu Chủ Nhật 09/06/2024 được xem là một cuộc trắc nghiệm về mối hàn gắn giữa « những người nông dân nổi giận với những nhà kỹ trị tại Bruxelles ».
Chưa đầy một tuần lễ trước bầu cử Nghị Viện Châu Âu hôm qua 03/06/2024 một số nông dân Pháp, Tây Ban Nha lại huy động máy cầy chiếm đóng các cửa khẩu biên giới trong 24 giờ đồng hồ. Sáng ngày 04/06/2024 đến lượt một số nông dân Ba Lan bao vây trụ sở của Liên Hiệp Châu Âu ở Bruxelles.
Thực ra đòi hỏi của những người nông dân nổi giận lần này không có gì mới so với phong trào đã bùng lên hồi đầu năm nay. Các nhà trồng trọt Ba Lan vẫn tức giận thấy nông phẩm của Ukraina được đưa vào châu Âu, họ cũng tức giận vì những chuẩn mực « xanh » Liên Âu áp đặt với các nhà sản xuất của khối này.
Ở chân dãy núi Pyrénées, biên giới tây nam giữa Pháp và Tây Ban Nha, cuộc biểu dương lực lượng là để nhắc nhở các nghị viên tương lai của châu Âu rằng hồ sơ nông nghiệp là một vấn đề cấp bách, xăng dầu, điện nước vẫn quá đắt đỏ với các nông dân.
Vì sao nông dân châu Âu từ ở Hà Lan đến Tây Ban Nha, Đức, rồi từ Ba Lan cho đến Pháp… đã vùng lên hồi tháng 1/2024 ? Để xoa dịu tình hình, gần hai tháng sau, Bruxelles và các chính phủ tại các quốc gia liên quan, như ở Pháp đã có những bước nhượng bộ nào ? Phải chăng khủng hoảng chưa hoàn toàn được dập tắt bởi chính sách nông nghiệp của Liên Âu PAC đầy những mâu thuẫn ?
Sự hào phóng của châu Âu với nông dân Ukraina
Nông dân tại nhiều nước trong khối, mạnh hơn cả là các nước Đông Âu (Ba Lan, Bulgari, Rumanie, Hungary, Slovakia) phẫn nộ khi mà hàng ngàn tấn ngũ cốc Ukraina vẫn cứ tiếp tục đổ vào thị trường châu Âu, tồn đọng trong các nhà kho trong khi mà các nhà sản xuất địa phương không có chỗ để chứa nông sản mà họ sắp thu hoạch vào mùa xuân 2024.
Nông sản Ukraina được cho là chỉ tạm dừng tại Liên Âu trước khi tiếp tục được chuyển sang một thị trường thứ ba như Trung Cận Đông hay châu Phi, trên thực tế giới trong ngành cho rằng lúa mì, hạt hoa hướng dương hay bắp của Ukraina được bán trực tiếp cho nhiều nước trong Liên Âu (Ý, Tây Ban Nha …).
Liên Âu liên đới với Ukraina phải đối mặt với chiến tranh. Nông dân châu Âu không đoàn kết với nông dân Ukraina.
Để xoa dịu phẫn nộ của giới chăn nuôi trồng trọt trong Liên Âu, Bruxelles đến tháng 3/2024 đã ban hành một số biện pháp khẩn cấp như là : giải ngân 156 triệu euro hỗ trợ các bên bị thiệt hại ; ấn định « những mức trần » về nhập khẩu lương thực, thực phẩm của Ukraina (thịt gà, trứng, mật ong, bắp …)
Bất mãn thứ hai cũng xuất phát từ chiến tranh Ukraina, khi mà cuộc chiến này đẩy giá năng lượng, phân bón lên cao. Uẩn ức thứ ba là các đợt hạn hán, rồi mưa lũ gây thiệt hại mùa màng khiến đời sống của các nông dân thêm chật vật. Nhà báo Gabriel Grésillon của tờ Les Echos đã thực hiện nhiều bài phóng sự về nỗi bất bình của nông dân Pháp trong vùng Haute Garonne, miền tây nam nước Pháp đưa ra một trường hợp cụ thể về « giọt nước làm tràn ly - tức nước vỡ bờ » tại đây :
« Điểm khởi đầu là một sự kiện rất cụ thể : giữa tháng 1 năm nay diễn ra một cuộc họp tại thành phố Toulouse để đàm phán về giá nước cho giới trồng trọt và chăn nuôi. Số này không được thỏa mãn và xin được chơi chữ một chút : đó là ‘giọt nước’ làm trào những phẫn uất của giới canh nông. Họ bắt đầu huy động lực lượng, dựng rào cản, chiếm đóng các trục giao thông và nhất là chiếm đóng xa lộ A64. Thực ra có rất nhiều vấn đề khiến giới chăn nuôi, trồng trọt phẫn uất. Một trong số đó là thu nhập quá thấp trong ngành. Ở khu vực Haute Garonne sau khi trừ tất cả các loại thuế, bảo hiểm, đóng góp xã hội … thu nhập hàng năm của nông dân là 5.000 euro »
"Thu nhập 5000 euro một năm"
Trên các phương tiện truyền thông, nông dân Pháp bất mãn nhất là cảm thấy bị đối xử bất công : giới làm công ăn lương được bảo đảm một mức lương tối thiểu. Nông dân thì không, như phóng viên báo Les Echos vừa trình bày. Chắc chắn là thu nhập 5.000 euro một năm không có sức thuyết phục giới trẻ ở Pháp lao vào nghiệp canh nông. Theo Viện Thống Kê Quốc Gia Pháp, năm 1965 trên toàn quốc có 6,2 triệu nông dân. Con số này rơi xuống còn 0,8 triệu năm 2020. Gabriel Grésillon cho biết tiếp :
« Đòi hỏi chính từ phía các nông gia là quyền được sống một cách đàng hoàng tử tế nhờ sức lao động của mình, họ cũng nêu bật là Châu Âu giảm trợ cấp thông qua Chính Sách Nông Nghiệp Chung, họ bất mãn vì giá xăng dầu tăng mạnh, vì chính sách thuế khóa, vì bị các tập đoàn phân phối bắt chẹt. Nông dân than phiền vì những thủ tục hành chính quá nặng nề, quá rắc rối làm họ tốn quá nhiều thời gian để khai đủ mọi loại giấy tờ thay vì dành thời gian đó cho công việc ngoài đồng ». Thu nhập quá thấp là nguyên nhân dẫn tới nhiều vụ nông dân Pháp tự sát như trường hợp của thân phụ Jérome Bayle, một nông dân 45 tuổi trong vùng Haute Garonne. Anh là một gương mặt hàng đầu trong phong trào tự phát của những người nông dân nổi dận ….
Giới sản xuất bị các nhà phân phối ép giá
Vậy làm thế nào nâng mức thu nhập cho những người đang nuôi sống 520 triệu dân trong Liên Hiệp Châu Âu ? Giáo sư đại học Sorbonne Sylvie Brunel, từng điều hành tổ chức Action Contre La Faim - Hành Động Chống Nạn Đói trả lời trong một chương trình trên đài truyền hình France24 cách nay đã gần ba năm trình bày về trường hợp cụ thể ở Pháp :
« 9 phần 10 thực phẩm đến tay người tiêu dùng phải đi qua các hệ thống phân phối mà cụ thể là các siêu thị lớn. Trên toàn nước Pháp có 4 trung tâm trực tiếp mua vào lương thực thực phẩm của các nông dân trước khi phân phối cho các siêu thị lớn và cho các cửa hàng chuyên về lương thực thực phẩm … Về phía các nhà cung cấp thì có hàng chục ngàn nông gia, có không biết bao nhiêu là tổ hợp và vài trăm nhà môi giới … Điều đó cho thấy là bên mua vào ở trong thế mạnh và họ sẵn sàng áp đặt giá cả với các nhà sản xuất. Chính vì thế mà Pháp đã ban hành luật Egalim (Egalité Alimentaire), đòi một mối tương quan bình đẳng hơn giữa các đại lý phân phối với các nông gia (Remontée) nhưng tới nay luật này không mang lại hiệu quả như mong muốn, bởi vì sự thực là có ít nhất ba trở ngại : người mua vẫn không biết rõ xuất sứ của các sản phẩm, chúng ta cũng không biết khi mua vào một quả trứng hay một bó rau, một kí lô táo …. thì nhà chăn nuôi nhân và nhà sản xuất được bao nhiêu phần trăm. Sau cùng, khi đi chợ mọi quyết định còn tùy thuộc vào túi tiền của người tiêu dùng ».
Hiệp Ước Xanh trong Chính Sách Nông Nghiệp Chung
Đối với hơn 800 ngàn nông dân Pháp đang nuôi sống hơn 68 triệu dân, đang góp phần để Liên Hiệp Châu Âu được mệnh danh là một cường quốc nông nghiệp, nắm giữ một phần chìa khóa của chính sách « tự chủ về lương thực » cho toàn khối, điều không thể chấp nhận được mà những đòi hỏi của châu Âu về các chuẩn mực xanh. Chính Sách Nông Nghiệp Chung phiên bản gần đây nhất và đã bắt đầu được áp dụng từ năm ngoái bao gồm luôn vế « Hiệp Ước Xanh » : Châu Âu gắn liền các khoản trợ cấp cho nông dân với đòi hỏi tuân thủ các chuẩn mực về môi trường.
Năm 2021 khi Liên Âu điều chỉnh Chính Sách Nông Nghiệp Chung PAC cũng trên đài truyền hình Pháp France 24 Sébastien Abis, chuyên gia về lương thực thực phẩm, giám đốc Club Demeter, một tổ chức quy tụ nhiều trường đại học và viện nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp chế biến thực phẩm đã nêu bật một nghịch lý :
« Chính Sách Nông Nghiệp Chung PAC ra đời từ năm 1962. Ở thời điểm đó Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu (tiền thân của Liên Hiệp Châu Âu) cần sản xuất nhiều để bảo đảm an ninh lương thực cho người dân châu Âu sau những năm tháng chiến tranh. Giờ đây ưu tiên của châu Âu đã thay đổi : Bruxelles đòi nông dân tiếp tục sản xuất để nuôi sống hơn 500 triệu miệng ăn. Đồng thời như tất cả mọi ngành nghề khác, ngành nông nghiệp cũng phải đóng góp vào tiến trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh. Tức là chúng ta đòi giới canh nông khắc phục những hậu quả biến đổi khí hậu gây nên. Đương nhiên đây là nghĩa vụ chung của nhân loại. Quả thực là các nhà chăn nuôi, trồng trọt họ trên tuyến đầu : họ khai thác đất đai, các nguồn nước ngọt để canh tác … họ tiếp cận trực tiếp với các nguồn tài nguyên thiên nhiên và do vậy có trách nhiệm với hệ sinh thái. Khúc mắc nằm ở chỗ trong phiên bản mới của Chính Sách Nông Nghiệp Chung được thông qua năm 2021 và có hiệu lực hai năm sau đó, Châu Âu vẫn đặt mục tiêu sản xuất nhiều hơn và chất lượng hơn, nhưng cùng lúc, lại đòi nông dân trong Liên Âu phải có trách nhiệm gìn giữ môi trường, mái nhà chung của nhân loại… Bruxelles tuy nhiên lại quên tính tới việc bảo đảm cho họ một mức thu nhập khả dĩ ».
Dân thành thị đòi nông dân bảo vệ đồng quê
Sylvie Brunel hoàn toàn chia sẻ quan điểm này khi bà nhắc lại một điều rất cơ bản mà các nhà kỹ trị ở Bruxelles dường như đã quên mất khi hoạch định ra Hiệp Ước Xanh
« Nông dân là người nuôi sống chúng ta và nếu như trong việc trồng trọt họ bảo vệ được thiên nhiên thì quá tốt. Nhưng chúng ta đừng nhầm khi xem rằng việc bảo vệ môi trường, thiên nhiên, gìn giữ các cảnh quang, … là bổn phận của giới chăn nuôi trồng trọt. Đất đai, sông ngòi, … là những công cụ sản xuất của nông dân. Ưu tiên của họ là khả năng sản xuất, là năng suất trồng trọt, là mức thu hoạch …. Đương nhiên là họ có trách nhiệm với môi trường nhưng đừng quên rằng nhiệm vụ đầu tiên của ngành nông là bảo đảm an ninh lương thực cho dân chúng trong Liên Hiệp Châu Âu »
Ở cấp châu Âu, Bruxelles đã lùi bước treen mục tiêu tiến đến một nền nông nghiệp xanh : thí dụ trợ cấp khi nông dân hưu canh từ 4 đến 7 % diện tích trồng trọt một năm ; hoãn việc cấm sử dụng một số loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ. Về phần 27 thành viên trong Liên Âu, tại Pháp chẳng hạn ngoài bộ trưởng Nông Nghiệp, thủ tướng Attal và tổng thống Macron trực tiếp can thiệp để giải tỏa những phẫn nộ của các nông gia. Chính phủ Pháp vừa hoãn thu thuế, vừa tìm cách giảm nhẹ các thủ tục hành chính rườm ra cho nông dân, thúc đẩy các hồ sơ xin trợ cấp được cứu xét nhanh hơn …
Dù vậy trước thềm bầu cử Nghị Viện Châu Âu cơn uất hận của giới trồng trọt và chăn nuôi tại châu Âu có khuynh hướng nhen nhúm bùng lên trở lại tại một vài nơi : đó là bằng chứng về thái độ hoài nghi của giới này với các nhà cầm quyền ở Bruxelles và cả ở các cấp địa phương.
Nhưng một phần khủng hoảng trong giới nuôi–trồng hiện nay tại châu Âu có lẽ xuất phát từ hố sâu chia rẽ giữa người dân thành phố đối với thôn quê. Các đảng xanh và giới bảo vệ môi trường ở thành phố xem những người chân lấm tay bùn, đứng trên ruộng đồng là thủ phạm gây ô nhiễm đất đai và sông ngòi khi họ rải phân bón, dùng thuốc trừ sâu…
Trước các đợt hạn hán thường xuyên xảy ra hơn do biến đổi khí hậu, nông dân cần tích trữ nước để nuôi gia súc và tưới, trồng thì lại bị tố cáo là « ích kỷ ,chiếm đoạt các nguồn nước ngọt, tài sản chung của dân chúng trong vùng ». Nhiều tỉnh thành ở miền nam nước Pháp thì xảy ra xung đột lợi ích giữa nông dân với ngành du lịch sợ « không đủ nước cho các bể bơi » để đón du khách tại các vùng nắng nóng, không đủ nước để tưới cỏ cho các sân golf ….
Ngay giữa các nhà nông với nhau, những đòi hỏi của Liên Âu về « trồng rau sạch », « chăn nuôi xanh », … khiến các nhà trồng trọt truyền thống phải chạy đua với những nhà sản xuất thực phẩm hữu cơ để tranh giành các khoản trợ cấp nông nghiệp của Bruxelles …
Tue, 04 Jun 2024
Podcasts ähnlich wie Tạp chí kinh tế
- Global News Podcast BBC World Service
- El Partidazo de COPE COPE
- Herrera en COPE COPE
- The Dan Bongino Show Cumulus Podcast Network | Dan Bongino
- VOV - Kinh tế Tài chính Đài Tiếng nói Việt Nam
- Es la Mañana de Federico esRadio
- La Noche de Dieter esRadio
- Hondelatte Raconte - Christophe Hondelatte Europe 1
- Thư Viện Sách Nói Có Bản Quyền Fonos
- Affaires sensibles France Inter
- La rosa de los vientos OndaCero
- Más de uno OndaCero
- La Zanzara Radio 24
- Les Grosses Têtes RTL
- L'Heure Du Crime RTL
- El Larguero SER Podcast
- Nadie Sabe Nada SER Podcast
- SER Historia SER Podcast
- Todo Concostrina SER Podcast
- 安住紳一郎の日曜天国 TBS RADIO
- The Tucker Carlson Show Tucker Carlson Network
- 辛坊治郎 ズーム そこまで言うか! ニッポン放送
- 飯田浩司のOK! Cozy up! Podcast ニッポン放送
- 武田鉄矢・今朝の三枚おろし 文化放送PodcastQR
Andere Geschäft Podcasts
- Tanguy Pastureau maltraite l'info France Inter
- Les experts BFM Business
- BFM Bourse BFM Business
- Riche d'Expériences Niko et Mehdi
- Entendez-vous l'éco ? France Culture
- Les Vraies Voix Sud Radio
- Culture IA BFM Business
- BFM Crypto Le Club BFM Business
- Libertad Inmobiliaria Carlos Galán
- On n'arrête pas l'éco France Inter
- La France bouge - Elisabeth Assayag Europe 1
- BFM Crypto, les Pros BFM Business
- La Productivité Décomplexée Sophie TAILLIEU
- Les Investisseurs Sereins - Investissement Immobilier Rentable Cyril & Dorine
- Outils du Manager Cedric Watine
- Culture d'entreprise. natif. I Grace Leplat
- All Ears English Podcast Lindsay McMahon and Michelle Kaplan
- Eduzzcast Eduzzcast
- Guided Meditation Guided Meditation
- Frankly Speaking Curzio Research