Filtrar por gênero

Tạp chí tiêu điểm

Tạp chí tiêu điểm

RFI Tiếng Việt

Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI

129 - Tên lửa siêu thanh Orechnik: Trò chơi leo thang xung đột của tổng thống Nga Putin
0:00 / 0:00
1x
  • 129 - Tên lửa siêu thanh Orechnik: Trò chơi leo thang xung đột của tổng thống Nga Putin

    Ngày 21/11/2024, quân đội Nga lần đầu tiên đã phóng tên lửa loại « Orechnik » nhằm vào thành phố Dnipro của Ukraina. Theo một số chuyên gia, với hành động này, tổng thống Vladimir Putin đưa ra một thách thức leo thang rất rõ ràng đối với phương Tây : Quý vị đã sẵn sàng hay chưa để Nga tấn công các cơ sở của NATO ở bất kỳ nơi nào tại châu Âu bằng các loại tên lửa siêu thanh mà quý vị không có ?

    Theo Le Monde, đây là lần đầu tiên trong lịch sử hạt nhân quân sự, Nga sử dụng một tên lửa đạn đạo tầm trung (IRBM), được thiết kế để mang đầu đạn hạt nhân trên chiến trường Ukraina. Tên lửa mới mang tên « Orechnik », có tầm bắn nằm trong khoảng từ 2000-3000 km.

    « Orechnik » : Đòn phủ đầu bất ngờ

    Chuyên gia Heloise Fayet, phụ trách chương trình nghiên cứu về Răn đe và Phổ biến Hạt nhân, Trung tâm Nghiên cứu An ninh, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), trên đài phát thanh France Culture giải thích đây là một phiên bản cải biên từ loại tên lửa cũ RS-26, từng được Nga phát triển trong những năm 2010, nhưng chương trình đã bị đình lại do quá tốn kém:

    « Điều thú vị ở đây là loại tên lửa này đã bị cấm trong từ năm 1987 đến năm 2019, nhờ vào Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân Tầm trung (INF). Văn bản được ký kết giữa Hoa Kỳ và Liên Xô sau cuộc khủng hoảng tên lửa châu Âu (1977 – 1987). Vụ căng thẳng nổi tiếng này lại gia tăng giữa Mỹ và Liên Xô tại châu Âu sau khi Nga phát triển và bố trí một số loại tên lửa nhằm đáp trả việc Mỹ cho lắp tên lửa Pershing tại châu lục này.

    Hai đại cường thời kỳ đó nhận ra rằng việc trang bị các loại tên lửa đạn đạo có tầm bắn từ 500 đến 5.500 km tạo ra một sự mơ hồ chiến lược, bởi vì một điểm tại châu Âu đã nằm trong tầm bắn từ lãnh thổ Liên Xô, và do vậy loại tên lửa này đã bị cấm. Tuy nhiên, trong những năm 2010, Nga đã quyết định tái khởi động một số chương trình vũ khí. Kế hoạch bị Mỹ phát hiện và ông Donald Trump năm 2019 đã quyết định rút khỏi Hiệp ước INF và sau đó là đến lượt Nga. »

    Đương nhiên, đòn phủ đầu này của Nga đã mang lại niềm hân hoan cho những người theo đường lối cứng rắn tại Matxcơva. Còn tại các thủ đô phương Tây, hành động này của Nga đã gây bất ngờ và là một bước rẽ quan trọng trong cuộc chiến tranh Ukraina. Hành động này có thể được xem như là một thách thức từ ông Putin, theo đó, NATO không đủ sức để đối phó với các loại tên lửa « siêu thanh » của Nga mà phương Tây không hề có.

    Chiến lược leo thang căng thẳng

    Về điểm này, Ian Proud, một nhà cựu ngoại giao Anh, am tường về Nga, trên trang Responsible Statecraft (27/11/2024) đánh giá rằng phương Tây đang hiểu sai về chiến lược của Nga. Tại mỗi thời điểm quan trọng trong một thập kỷ qua, Nga tìm cách thống trị leo thang, một khái niệm Chiến Tranh Lạnh, theo đó, một quốc gia có thể kiềm chế xung đột tốt nhất và tránh leo thang nếu họ thống trị ở mỗi bậc leo thang liên tiếp, cho đến nấc sau cùng là bậc thang hạt nhân.

    Chiến lược này đã được Nga áp dụng kể từ khi nổ ra khủng hoảng Ukraina năm 2014. Việc sáp nhập bán đảo Crimée năm 2014 và cuộc chiến xâm lược Ukraina tháng 02/2022 là bước leo thang lớn mà NATO đã không đối đầu trực diện. Chiến lược này cũng được Nga thực hiện trong lĩnh vực ngoại giao. Người ta còn nhớ năm 2017, Matxcơva leo thang căng thẳng với Washington khi trục xuất 755 nhân viên ngoại giao Mỹ. Khi cho leo thang quá mức, Nga đánh cược rằng đối thủ của mình sẽ không sẵn sàng bước thêm một nấc thang nữa.

    Tại Matxcơva, có một quan điểm cứng rắn, được củng cố bởi chủ nghĩa tuần tiến của Joe Biden, cho rằng khi có căng thẳng, Nga sẽ luôn vượt trội hơn một liên minh phương Tây chia rẽ và yếu kém về mặt đạo đức. Bởi một lẽ dễ hiểu là Nga có thứ mà phương Tây không có : Quyền lực tối cao và Ý chí chính trị, để có thể đơn phương hành động.

    Ông Putin đã bị những người theo đường lối cứng rắn chỉ trích là đã không phản ứng trước việc phương Tây tăng cường viện trợ quân sự cho Ukraina. Do vậy, việc Nga phóng một tên lửa siêu thanh Orechnik vào một cơ sở vũ khí kiên cố của Ukraina tại Dnipro đúng là đã đánh dấu một bước leo thang mới, bởi vì đây là lần đầu tiên tên lửa đạn đạo tầm trung được sử dụng trên chiến trường.

    « Orechnik » : Ngưỡng hạt nhân không bị phá vỡ

    Theo ông Ian Proud, hành động này của Matxcơva mang nhiều ý nghĩa quan trọng, vì một số lý do. Thứ nhất, việc sử dụng tên lửa « Orechnik » cho thấy một sự leo thang mới về khả năng hủy diệt. Thiệt hại gây ra từ cuộc không kích này dường như lớn hơn đáng kể so với các cuộc tấn công thông thường khác.

    Về điểm này, nhà nghiên cứu Heloise Fayet, lưu ý rằng, điều thú vị ở đây, không phải ở điểm tên lửa có thể mang đầu đạn hạt nhân, mà là việc chúng có thể mang nhiều đầu đạn thông thường cùng một lúc. Trên đài phát thanh France Culture, nữ chuyên gia Pháp giải thích tiếp:

    « Giới chức Nga rất rõ ràng về chủ đề này. Mục tiêu của họ với loại tên lửa đạn đạo tầm trung là sử dụng nhiều đầu đạn cùng lúc và tiến hành bắn hàng loạt để có thể tiếp cận bằng tên lửa quy ước nhiều địa điểm mà trước đây chỉ có thể thực hiện bằng vũ khí hạt nhân, và do vậy cho phép tấn công dễ dàng hơn nhiều.

    Bởi vì, với một loại vũ khí quy ước như vậy, quý vị không vi phạm điều cấm kỵ về hạt nhân, và do vậy tấn công dễ dàng hơn nhiều các mục tiêu tại Ukraina, hay, tại sao không, ở Ba Lan, Rumani hay các nước vùng Baltic ? Điều này đặt ra câu hỏi : Chúng ta sẽ phản ứng thế nào, đặc biệt là NATO hay Pháp, trước một cuộc tấn công nhằm vào các địa điểm cho đến giờ được cho là khó thể bị nhắm đến ? »

    Thứ hai, theo ông Ian Proud, một ngày sau cuộc không kích, tổng thống Nga, trong bài phát biểu trước toàn dân, đã cẩn thận mô tả đây là « một cuộc thử nghiệm », đồng thời khẳng định tên lửa « Orechnik » có một khả năng triển khai vượt xa năng lực các loại tên lửa mà các cường quốc phương Tây cho phép Ukraina sử dụng để oanh kích sâu vào lãnh thổ Nga như ATACMS hay Storm Shadow. Nguyên thủ Nga còn để ngỏ cánh cửa cho các « cuộc thử nghiệm » tiếp theo của Orechnik.

    « Orechnik » làm lộ rõ điểm yếu của châu Âu

    Trong bài phát biểu, tổng thống Nga khẳng định, phương Tây chưa có một phương tiện nào để chống lại một kiểu oanh kích như ngày 21/11. Với tốc độ Mach 10, tức khoảng từ 2,5 -3 km/giây, chưa có một hệ thống phòng không nào hiện có trên thế giới, kể cả các hệ thống phòng không Mỹ bố trí tại châu Âu có thể bắn chặn. Một thông tin phần nào cũng được nhà nghiên cứu Heloise Faye, thừa nhận trên làn sóng France Culture ngày 25/11/2024:

     « Có một số hệ thống phòng không có khả năng bắn chặn loại tên lửa này, đặc biệt là hệ thống THAAD. Đây là hệ thống tên lửa của Mỹ và được nước này triển khai gần đây ở Israel để bảo vệ lãnh thổ Israel trước một cuộc tấn công của Iran. Vấn đề là hệ thống phòng không này cực kỳ đắt và có rất ít. Quả thật, nghĩ đến một dạng Vòm Sắt giống như hệ thống vũ khí được bố trí ở Israel trên lãnh thổ châu Âu hoàn toàn là một điều ảo tưởng. »

    Cuộc « thử nghiệm » của Nga đang đặt Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp trong thế phải đối mặt với việc đưa Ukraina vào một tình huống mà một loại vũ khí có sức tàn phá lớn hơn có thể được sử dụng để chống phá các mục tiêu chiến lược hoặc trên chiến trường.

    Cuối cùng, phạm vi tấn công của Orechnik lớn hơn gấp 16 lần so với tên lửa ATACMS và Storm Shadow. Điều này đặt bất kỳ mục tiêu nào của NATO trong tầm bắn của cuộc tấn công thông thường. Theo nhiều nguồn tin từ Nga, trong cuộc không kích hôm 21/11, Nga đã phá hủy cơ sở vũ khí Yuzhmash, được xây dựng từ thời Liên Xô cũ, nằm sâu dưới lòng đất để tránh bị tấn công. Đây dường như là nơi được hãng vũ khí Rheinmetall của Đức sử dụng để sửa chữa xe tăng Leopard và Ukraina dùng làm cơ sở để sản xuất drone tầm xa.

    Thế nên, với việc lần đầu tiên dùng vũ khí đạn đạo tầm trung không kích Ukraina, ông Putin đã gởi đi một thông điệp rất rõ ràng đến các nhà hoạch định chiến lược quân sự của Mỹ và Anh Quốc, những nước ủng hộ việc triển khai ATACMS, hay Storm Shadow, rằng mục tiêu cụ thể sắp tới rất có thể sẽ là NATO.

    Leo thang xung đột : Mỹ có sẽ phản ứng ?

    Dù vậy, nhà nghiên cứu tại IFRI lưu ý thêm rằng, chi phí để sản xuất một loại tên lửa như vậy rất tốn kém, ước tính lên đến hàng chục triệu euro, phải mất nhiều năm để sản xuất và Nga hiện chỉ sở hữu một số lượng rất hạn chế, nhất là vẫn còn đang trong giai đoạn « thử nghiệm » như tuyên bố của nguyên thủ quốc gia Nga.

    Trong cuộc leo thang xung đột giữa Nga và Phương Tây, liệu tổng thống Nga có đi đến nấc sau cùng là dùng đến vũ khí nguyên tử hay không ? Chuyên gia Heloise Fayet cho biết lập trường của bà:

    « Theo tôi, nguy cơ sử dụng vũ khí nguyên tử là cực kỳ thấp, ngay cả khi chúng ta nói đến vũ khí hạt nhân của Mỹ, Bắc Triều Tiên, Nga… Tôi cho rằng  Vladimir Putin đang tìm cách chứng tỏ rằng ông có nhiều giải pháp thay thế hơn là một cuộc tấn công hạt nhân, bởi vì ông biết rằng vũ khí hạt nhân đã không được dùng đến từ năm 1945 và thật không may là hiện nay, Nga không còn trong thế yếu trên chiến trường Ukraina.

    Ông Putin cũng thấy rõ là tại châu Âu và Mỹ đang có nhiều cuộc tranh luận, rồi việc ông Trump sắp trở lại cầm quyền, về nguyên tắc, là ít hậu thuẫn Ukraina hơn, và do vậy, ông ấy thật sự cũng chẳng được lợi gì nếu bị cộng đồng quốc tế gạt ra bên lề, nhất là có thể gây mâu thuẫn với đối tác Trung Quốc, vốn luôn thận trọng trong việc sử dụng vũ khí nguyên tử.

    Ngược lại, ông ấy sẽ tìm cách đẩy lùi dần ngưỡng sử dụng vũ khí hạt nhân khi đánh cược trên cả hai vế : Một mặt, bằng cách cho phát triển các phương tiện tấn công sâu theo quy ước, có thể cho phép ông đạt được mục tiêu chính trị nhưng không vi phạm điều cấm kỵ về hạt nhân, và mặt khác, bằng cách luôn đưa ra báo động về việc ông ấy điều chỉnh học thuyết răn đe hạt nhân Nga, để cho thấy mối đe dọa hạt nhân vẫn luôn còn đó.

    Một lần nữa, ông Putin có sẵn nhiều lựa chọn thay thế, kể cả tấn công mạng và nhất là, tại sao không, sử dụng vũ khí hóa học tấn công sâu để đẩy lui việc sử dụng vũ khí hạt nhân ».

    Về phía Mỹ, vào lúc sắp hết nhiệm kỳ tổng thống, liệu ông Biden có quyết định sẵn sàng leo thang quá mức với Putin hay không ? Điều này đòi hỏi vị tổng thống sắp mãn nhiệm phải mở rộng một cách ồ ạt, quy mô và phạm vi của các hệ thống vũ khí của Hoa Kỳ có thể được sử dụng ở Ukraina. Tuy nhiên, Ian Proud nhắc nhở, quân đội Mỹ vẫn chưa có một hệ thống tương đương đang hoạt động như Orechnik. Sắp đến ngày chính thức bước vào Nhà Trắng, liệu rằng Donald Trump có sẽ quyết định mở kho vũ khí hay không, đây vẫn còn là một điều đáng ngờ !

    Thu, 28 Nov 2024
  • 128 - Vatican thúc đẩy hòa bình ở Ukraina trước ngưỡng cửa mùa đông thứ ba

    Từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 10 năm 2024, đức hồng y Matteo Zuppi đã đến Matxcơva trong vai trò đặc phái viên của Đức giáo hoàng Phanxicô để tiếp tục sứ mệnh « ngoại giao nhân đạo » thúc đẩy con đường hòa bình cho cuộc chiến ở Ukraina.

    Phát ngôn viên phòng báo chí Toà Thánh đã xác nhận nhưng không cho biết chi tiết về chuyến đi Nga của đức hồng y Zuppi sáng ngày 14/10. Sau khi kết thúc chuyến đi, cũng không có nhiều thông báo chi tiết được công bố. Và vào cuối tuần 19/10, một cuộc trao đổi tù binh chiến tranh của đôi bên đã diễn ra qua trung gian của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất.

    Chuyến đi Nga xảy ra ngay sau cuộc gặp ngắn giữa tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky và đức giáo hoàng Phanxicô tại Vatican hôm 11/10/2024. Vào lúc chiến sự lan rộng, xung đột diễn ra ác liệt hơn, về mặt ngoại giao, hai bên vẫn chưa thể ngồi vào bàn đàm phán và Vatican là một trong số ít kênh còn mở nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình.

    Cách nay 15 tháng, đặc phái viên của giáo hoàng đã tới Matxcơva. Liệu đây có sẽ là chu kỳ được lặp lại ? Ngài có tiếp tục đi Kiev, Bắc Kinh và Washington hay không ?

    Tại saolại tớiMatxcơva ?

    Thông cáo của Văn phòng báo chí Toà Thánh giải thích rằng chuyến đi diễn ra « trong khuôn khổ nhiệm vụđứcgiáo hoàng Phanxicô giao phó cho [Zuppi] vào năm2023, đó là gặp gỡ các nhà chức trách và đánh giá các nỗ lực tiếp theo nhằm tạo điều kiện cho việc đoàn tụ gia đình của trẻ em Ukrainavà trao đổi tù nhân, nhằm đạt được hòabình mà nhiều người mong đợi ».

    Tuyên bố có ba điểm quan trọng : Thứ nhất, đức hồng y Matteo Zuppi đến Matxcơva với tư cách là đặc phái viên hòa bình của Vatican, một vai trò mà ngài đã đảm nhiệm từ tháng 5/2023.

    Thứ hai, chuyến đi có hai mục tiêu. Đầu tiên hết là giúp đỡ gần 20.000 trẻ em Ukraina bị bắt đến Nga được trở về với gia đình. Mục tiêu thứ hai này cũng thúc đẩy trao đổi tù binh chiến tranh Nga và Ukraina. « Phái bộ Zuppi » đã đạt được một số thành công trên cả hai mặt trận, mặc dù khó có thể định lượng được do màn sương mù của cuộc chiến.

    Thứ ba, Tòa Thánh hy vọng rằng các thỏa thuận nhân đạo sẽ là bước mở đầu cho các cuộc đàm phán hòa bình.

    Sau hơn một năm, nhiều sự kiện này đã diễn ra qua các chuyến đi và gặp gỡ của các nhân vật có trách nhiệm và chính đức giáo hoàng cho thấy Tòa Thánh đã làm việc không ngừng, và nhất là trong những tháng gần đây để thúc đẩy sứ mệnh của mình.

    Việc đức hồng y Zuppi trở lại Nga ngụ ý rằng các cuộc thảo luận về tù binh chiến tranh và trẻ em bị bắt cóc đã tiến triển đến mức cần phải có các cuộc đàm phán trực tiếp để đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa. Nhưng đó đơn giản chỉ là một suy luận.

    Nhưng lịch trình của chuyến đi đã được thông báo cụ thể ?

    Chuyến đi của đức hồng y Zuppi bắt đầu bằng cuộc gặp ngày 14/10/2024 với ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov. Bản thân điều này đã đánh dấu sự khác biệt đáng kể so với chuyến thăm đầu tiên của ngài. Trong chuyến đi trước vào tháng 6/2023, quan chức ngoại giao cấp cao nhất mà ngài gặp là Yuri Ushakov, trợ lý của tổng thống Nga về chính sách đối ngoại.

    Tòa Thánh Vatican có thể sẽ vui mừng khi Zuppi bảo đảm được một cuộc gặp ngay lập tức với ngoại trưởng Lavrov, có thể nói là nhân vật của điện Kremlin dễ nhận biết nhất sau tổng thống Vladimir Putin. Điều này cho thấy các nỗ lực nhân đạo của Tòa Thánh đang được chính phủ Nga coi trọng.

    Tuy nhiên, Vatican có thể thất vọng vì, không giống như tháng 6/2023, đặc sứ của giáo hoàng lần này không thể gặp nhà lãnh đạo Giáo hội Chính thống giáo Nga là đức thượng phụ Kirill. Một linh mục thuộc Uỷ Ban Quan hệ Đối ngoại của Tòa thượng phụ Matxcơva đã nói với hãng thông tấn nhà nước Nga TASS rằng « lịch trình làm việc bận rộn của Đứcthượng phụ Kirill không cho phép một cuộc gặp mới vớihồng y Zuppi ».

    Nhưng đó không phải dấu hiệu quá thất vọng vì còn có những cuộc họp mang tính xây dựng tích cực ở cấp thấp hơn ?

    Bên cạnh cuộc gặp với Serguei Lavrov, ngoại trưởng Nga và Yuri Ushakov, cố vấn cho tổng thống Liên bang Nga về các vấn đề chính sách đối ngoại, còn có Marija Lvova-Belova, ủy viên tổng thống về Quyền Trẻ em và Tatiana Moskalkova, ủy viên tổng thống về Nhân quyền.

    Tuy không có cuộc họp nào với Đức thượng phụ Kyrill, nhưng quan trọng không kém là cuộc gặp gỡ với Giáo hội Chính thống Nga mà đại diện là đức tổng giám mục Antonij, chủ tịch Uỷ ban Quan hệ Đối ngoại của Tòa thượng phụ Matxcơva, có thể coi như là Ngoại trưởng, người mà Zuppi đã « thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau, đặc biệt là những vấn đề có tính chất nhân đạo », theo ghi chú của Tòa Thánh.

    Trong cuộc họp này, có sự hiện diện của sứ thần Tòa Thánh tại Nga, đức tổng giám mục Giovanni D'Aniello, và đức ông Paul Butnaru, thuộc Cơ quan liên lạc với các quốc gia của Phủ Quốc vụ khanh. Đức hồng y Zuppi và đức tổng giá mục Antonij đã từng gặp nhau trong chuyến thăm trước vào năm 2023. Vatican vẫn tin rằng các Giáo hội có thể đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hòa bình.

    Cũng vào ngày 15/10, Zuppi đã nói chuyện với ủy viên phụ trách quyền trẻ em của Nga Maria Lvova-Belova, như ngài đã làm trong chuyến thăm năm 2023. Xin nhắc lại, cuộc gặp đầu tiên này giữa hai bên đã gây tranh cãi sâu sắc ở Ukraina, vì Tòa án Hình sự Quốc tế tại La Haye đã ban hành lệnh bắt giữ Lvova-Belova vào tháng 3/2023, khi buộc tội bà phải « chịu trách nhiệm về tội ác chiến tranh là cưỡng bức bất hợp pháp » trẻ em Ukraina sang Nga.

    Tuy nhiên, cuộc gặp năm 2023 với Lvova-Belova được cho là đã giúp Vatican thiết lập một cơ chế để đưa trẻ em trở về Ukraina. Theo nhật báo công giáo Ý Avvenire, hoạt động tiếp cận của Zuppi đã dẫn đến một hội nghị thượng đỉnh « trực tuyến » giữa Lvova-Belova và người đồng cấp Ukraina, mà tờ báo của các giám mục Ý mô tả là « một trong những trường hợp rất hiếm hoi có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bên ».

    Nhưng thông tin chi tiết về hội nghị thượng đỉnh này được giữ kín. Mặc dù Lvova-Belova đã nói vào tháng 4/2024 rằng « lần đầu tiên theo hình thức trực tiếp, chúng tôi đã có các cuộc đàm phán với phía Ukrain», nhưng thanh tra viên Ukraina Dmytro Lubinets dường như đã bày tỏ sự nghi ngờ về tuyên bố này.

    Cuộc gặp thứ hai của Zuppi với Lvova-Belova có thể nhằm mục đích củng cố cơ chế hồi hương những trẻ em bị trục xuất. Sau cuộc họp, Lvova-Belova cho biết : « Chúng tôi đã đồng ý tiếp tục hợp tác vì lợi ích của các gia đình và trẻ em ». Còn theo Vatican News, « chúng tôi đã thảo luận về kết quả và sự tương tác hơn nữa vì lợi ích của các gia đình và trẻ em, bao gồm cả việc đoàn tụ các gia đình từ Nga và Ukraina. Chúng tôi đang thực hiện việc này với sự tham gia của bộ Ngoại Giao Nga. Chúng tôi quyết định tiếp tục làm việc cùng nhau ».

    Mặc dù tuyên bố không tiết lộ nhiều, nhưng nó cho thấy cuộc họp diễn ra khá tốt.

    Tiếp theo là gì ?Đây có phải điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến công du hoà bình vòng quanh thế giới như đã từngthực hiệnhồi năm 2023 ? 

    Việc đức hồng Y Zuppi đến Matxcơva lần này, trước tiên, cho thấy ông không chỉ đơn giản là quay lại con đường cũ và Vatican coi Nga là nơi phù hợp để tập trung các nỗ lực ngoại giao tại thời điểm này.

    Nhưng điều này vẫn chưa chắc chắn vì Vatican chia sẻ rất ít thông tin trước, về lịch trình công tác của phái viên hòa bình. Vatican có xu hướng chỉ đưa ra thông báo sau khi Zuppi đến thủ đô nước ngoài, vì vậy, ngay cả khi vị hồng y này có sẽ đến Ukraina tiếp theo hay không.

    Vatican cũng có thể không xem xét đến một chuyến đi khác tới Trung Quốc như là ưu tiên. Bởi vì việc này có thể thực hiện bằng hình thức họp trực tuyến như đã từng có : Cuộc điện đàm của đức hồng y Zuppi với đặc sứ Trung Quốc Lý Huy phụ trách các vấn đề Á-Âu hồi tháng 8/2023.

    Điều chắc chắn là Ukraina đã thấy Vatican cử đại diện là ngoại trưởng Tòa Thánh, đức tổng giám mục Paul Gallargher đến tham dự hội nghị cấp bộ trưởng vào ngày 30-31/10/2024 tại Canada thảo luận về việc trao trả tù binh chiến tranh Ukraina, thường dân và trẻ em bị trục xuất.

    Hội nghị Montréalkết thúc cho kết quả ra sao?

    Hội nghị bộ trưởng diễn ra ở Montreal do Canada – Na Uy và Ukraina đồng chủ tịch để bàn về các vấn đề nhân đạo với hơn 70 nước và các tổ chức quốc tế. Hội nghị nhằm mục đích thiết lập lộ trình với các giải pháp thực tế để giải quyết mọi giai đoạn hồi hương tù binh chiến tranh và người bị trục xuất, bao gồm quân nhân, thường dân và trẻ em, cũng như tăng cường gây sức ép buộc Liên bang Nga phải tuân thủ luật pháp quốc tế và Công ước Genève.

    Người đứng đầu văn phòng tổng thống Ukraina, Andrij Yermak đã có cuộc họp riêng với các đại diện của Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Vatican và Thuỵ Sỹ. Ông Andrij Yermak và ngoại trưởng Tòa Thánh, đức tổng giám mục Paul Gallagher đã thảo luận về việc tăng cường hợp tác và đóng góp của Vatican vào việc thực hiện Công thức hòa bình, đặc biệt là việc thực hiện sứ mệnh của hồng y Matteo Zuppi nhằm hồi hương những trẻ em bị bắt cóc và tù nhân Ukraina.

    Đồng thời, đại sứ Ukraina bên cạnh Toà Thánh, Andrii Yarash đã gửi năm danh sách cho bộ trưởng ngoại giao Vatican: « một của những nhà báo; một của các thường dân đang trong tình trạng sức khỏe nguy kịch; một của những người lính bị thương; một của những giáo sĩ bị bắt; và tất nhiên là danh sách các trẻ em bị bắt cócsang Nga. »

    Trong sứ mạng này, đại sứ cho biết, Ukraina đã có hai đối tác quan trọng là Qatar và Canada, nhưng Vatican có một vị trí đặc biệt. Ông nhắc đến đức giáo hoàng, đức hồng y Pietro Parolin, hệ thống các tòa khâm sứ và các khâm sứ Tòa Thánh, và nhất là vai trò đặc biệt của đức hồng y Matteo Zuppi.

    Nhưng trong những tháng tới, chúng ta nên chú ý đến các cuộc trao đổi tù binh chiến tranh và thường dân cũng như trẻ em bị bắt cóc. Mặc dù vai trò của Vatican trong những sự kiện như vậy hiếm khi được nhấn mạnh, nhưng Tòa Thánh không hề có dấu hiệu chậm lại trong nỗ lực đạt được bước đột phá nhân đạo khó nắm bắt trong diễn tiến của cuộc chiến này.

    RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Linh mục Phạm Hoàng Dũng từ Liège, Bỉ.

    Thu, 21 Nov 2024
  • 127 - Châu Mỹ Latinh : Ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc tại « sân sau » của Mỹ

    Vào lúc Hoa Kỳ cùng các đồng minh nỗ lực kềm hãm Trung Quốc ở châu Á, tại Nam Mỹ, Bắc Kinh tăng tốc đầu tư để mở rộng ảnh hưởng. Việc chủ tịch Tập Cận Bình ngày 14/11/2024 khánh thành cảng biển Chancay ở Pêru, trị giá hàng tỷ đô là một ví dụ điển hình, khẳng định thế ngày càng mạnh của Bắc Kinh ngay tại « sân sau » của Washington.

    Terminal Portuasrios Chancay (TPCH), do đích thân chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng đồng nhiệm Pêru Dina Boluarte khánh thành bên lề thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương APEC, sẽ là cảng biển dân sự - quân sự đầu tiên của Trung Quốc tại Nam Mỹ.

    Theo trang Intelligence Online (24/05/2022), cơ sở hạ tầng này đã ra đời nhờ vào mối liên kết đặc quyền mà Cosco Shippings Ports của Trung Quốc thiết lập với bộ Quốc Phòng ở Lima. Cựu tư lệnh Hải quân, tướng Gonzalo Rios Polastri, đô đốc Carlos Tejada Mera và Jason Guillén, trước đây là người đứng đầu bộ phận hậu cần của Hải quân Pêru, là những trụ cột của chi nhánh Cosco ở Chancay. Họ đều làm việc dưới sự điều hành của He Bo (Derek), phó tổng giám đốc chi nhánh Cosco ở Pêru.

    Cảng Chancay: Biểu tượng cho sức mạnh ảnh hưởng Trung Quốc

    Cảng biển khổng lồ do tập đoàn Cosco Shippings Ports, chiếm đến 60% cổ phần, đầu tư 3,6 tỷ đô la. Nằm cách thủ đô Lima gần 80 km về phía bắc và được xây dựng trên một diện tích rộng hơn 140 ha, một khi hoàn thành, cảng biển nước sâu Chancay (gần 18 mét) sẽ có 15 kè cảng và có thể tiếp nhận các loại tầu hàng lớn nhất thế giới, có khả năng vận chuyển đến 24 ngàn container.

    Với cơ sở hàng hải này, thời gian vận chuyển hàng hóa từ Trung Quốc đến Nam Mỹ cũng sẽ được rút ngắn từ hơn 30 ngày xuống còn khoảng hơn 20 ngày. Theo nhận định từ Marc Lanteigne, chuyên gia về Trung Quốc, trường đại học Bắc Cực ở Na Uy, được France 24 trích dẫn, có được cảng nước sâu nói trên « tầu thuyền Trung Quốc không phải quá cảnh tại một cảng ở Bắc Mỹ hay ở Mêhicô khi băng qua Thái Bình Dương đến vùng Nam Mỹ », nhất là trong trường hợp căng thẳng gia tăng giữa Washington và Bắc Kinh, tầu thuyền của Trung Quốc có nguy cơ không được ghé cảng Rio Grande của Mỹ.

    Đối với nhiều nhà quan sát, qua sự kiện này, Bắc Kinh đã chứng tỏ với các nước trong vùng « khả năng và mong muốn của Trung Quốc đầu tư vào các dự án hạ tầng quy mô lớn tại châu Mỹ Latinh », khu vực theo truyền thống được xem như là « sân sau » của Mỹ. Nhà nghiên cứu về Trung Quốc, Emmanuel Veron, Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông INALCO, giảng viên tại trường Hải quân Pháp, trên đài RFI giải thích, sau châu Phi, châu Mỹ Latinh được xem như vùng lãnh thổ chinh phục sau cùng của Trung Quốc.

    « Châu Mỹ Latinh đã nằm trong lịch trình chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ nhiều năm qua. Sách Trắng đối ngoại của Trung Quốc đề cập đến khu vực này trong những năm 2007, 2008, 2009. Kể từ giai đoạn đó, có một sự chính thức hóa, chuẩn hóa chính sách đối ngoại đối với châu Mỹ Latinh.

    Nếu nhìn vào các chi tiết, rõ ràng, bất chấp chính sách đối ngoại Big Stick của tổng thống Roosevelt có từ cách nay hơn một thế kỷ, tất cả các nước châu Mỹ Latinh, sân sau của Mỹ, ngày nay đều nằm dưới ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc ở mọi cấp độ, từ công nghệ, nhập khẩu, xuất khẩu nguyên liệu thô, đặc biệt là các loại nguyên liệu chiến lược như khoáng sản, đậu nành và các nguồn thực phẩm ».

    Nơi nào Hoa Kỳ thoái lui, nơi ấy Trung Quốc lấp chỗ trống

    Các dữ liệu từ Ủy ban Kinh tế Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê thuộc Liên Hiệp Quốc cho thấy, trao đổi mậu dịch giữa Trung Quốc và các nước trong vùng đã tăng gấp 35 lần từ năm 2002 để đạt khoảng 500 tỷ đô la vào năm 2022, đến mức Bắc Kinh nay đã qua mặt Washington trở thành đối tác kinh tế hàng đầu tại chín quốc gia, trong đó có Brazil, Achentina và Perou. Trao đổi thương mại này có thể sẽ đạt mức 700 tỷ đô là vào năm 2035 theo như dự phóng từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới được Le Monde (30/06/2023) trích dẫn.

    Các chính sách đầu tư ồ ạt, chiến lược ngoại giao cho vay, cùng với lập trường tôn trọng chủ quyền và « không can thiệp » trong nền ngoại giao Trung Quốc, đã hội tụ với những lợi ích kinh tế và chính trị của nhiều lãnh đạo thuộc « cánh tả mới » ở Nam Mỹ, tạo thuận lợi cho Trung Quốc dần lấn sâu vào khu vực.

    Theo một báo cáo của tổ chức tư vấn Đối thoại Liên lục địa châu Mỹ, trụ sở ở Washington, trong giai đoạn từ 2005 – 2022, các khoản vay mà Trung Quốc cấp cho các nước trong vùng đã tăng từ 7 triệu đô la lên thành 136 tỷ. Bà Margaret Myers, giám đốc chương trình châu Á và châu Mỹ Latinh, nhận định, « những khoản vay ồ ạt đó đã góp phần củng cố vị thế của các doanh nghiệp Trung Quốc tại châu lục, mở cho họ cánh cửa thị trường và danh tiếng của họ trên trường quốc tế. »

    Sự trỗi dậy ngoạn mục của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh còn được giải thích bởi việc Hoa Kỳ ngày càng giảm các cam kết với khu vực. Hai chuyên gia về châu Mỹ Latinh, Alvaro Mendez và Gaspard Estrada, trong một bài phân tích cho đại học Khoa học Chính trị Sciences Po Paris năm 2023, được France 24 dẫn lại, đã ghi nhận số lần ông Tập Cận Bình đến thăm các nước châu Mỹ Latinh còn « cao hơn cả số những chuyến thăm của các tổng thống Mỹ Barack Obama, Donald Trump và Joe Biden gộp lại ».

    Pêru: Đầu ra, đầu vào lý tưởng cho hàng xuất – nhập khẩu Trung Quốc

    Vì sao Trung Quốc đầu tư vào cảng Chancay của Peru ? Theo truyền thống, Trung Quốc ban đầu chỉ quan tâm đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên, từ dầu hỏa của Venezuela, đậu nành của Brazil, Achentina, cho đến các mỏ đồng tại Pêru. Cùng với thời gian, các nhu cầu của Trung Quốc cũng thay đổi. « Tam giác vàng » lithium – Achentina, Chilê và Bolivia – kể từ giờ đặc biệt thu hút sự chú ý của Trung Quốc. Là quốc gia xuất khẩu hàng đầu chất lithium tinh chế và để giữ vững vị thế này, Trung Quốc cần đến châu Mỹ Latinh nhằm bảo đảm nguồn cung thiết yếu.

    Theo Emmanuel Veron, với việc đầu tư vào cảng biển Chancay, Trung Quốc đang định hình lại bản đồ diện mạo hàng hải ở châu Mỹ Latinh. « Sau khi đã hoạt động ở bờ Đại Tây Dương của Brazil cũng như châu Mỹ Latinh, Trung Quốc tấn công vào phía bờ Thái Bình Dương của khu vực khi xem Peru như là một cửa ngõ chủ chốt ». Nam Mỹ không chỉ là nguồn cung nguyên nhiên liệu chiến lược, mà còn là đầu ra thay thế cho hàng hóa Trung Quốc vào thời điểm nước này đang gặp khó khăn do dư thừa sản xuất.

    Nhìn từ góc độ này, cảng Chancay có thể đóng một vai trò chủ chốt : Bằng cách giảm thời gian vận chuyển, cảng nước sâu này cho phép hạ giá thành, và bán hàng hóa « Made in China » rẻ hơn tại châu lục, nhất là trong bối cảnh gia tăng căng thẳng thương mại Mỹ - Trung. Theo giới quan sát, có ba mặt hàng mà Trung Quốc đang nỗ lực tài trợ cho xuất khẩu do bị dư thừa sản xuất : Ô tô điện, các loại bình điện và pin năng lượng mặt trời.  

    Tuy nhiên, ông Emmanuel Veron cảnh báo, cùng với dòng thác hàng hóa Trung Quốc, châu Mỹ Latinh có nguy cơ đối mặt với nạn buôn lậu, buôn người và buôn thuốc phiện:

    « Trên thực tế, đó không chỉ do mối quan hệ thương mại và chiến lược Mỹ - Trung tiếp tục tồi tệ, mà còn vì những khó khăn ngày càng rõ từ phía châu Âu đối với Trung Quốc, vào lúc châu Âu chuẩn bị tốt hơn để đối phó với việc Trung Quốc bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.

    Do vậy, Trung Quốc cố gắng tìm kiếm nhiều thị trường mới, nhiều đầu ra khác và do vậy nhắm đến việc tái tổ chức các chuỗi giá trị, các chuỗi xuất khẩu của mình, và do vậy, các cơ sở hàng hải với đầu vào, đầu ra chính là cảng biển. Tuy nhiên, kèm với việc vận chuyển, buôn bán hàng hóa hợp pháp được hải quan giám sát, là nguy cơ gia tăng các hoạt động buôn bán bất hợp pháp trong những năm sắp tới.

    Bằng chứng cụ thể là các tổ chức có liên hệ với các nhóm mafia lớn, các tổ chức tội phạm Trung Quốc tại châu Mỹ Latinh đã tăng mạnh trong các lĩnh vực xuất – nhập khẩu thuốc phiện, buôn người hay nhiều sản phẩm bất hợp pháp khác. »

    Châu Mỹ Latinh và Biển Đông – Hai sân sau, hai cuộc chiến

    Trước những tiến triển này, Hoa Kỳ gần như tỏ ra bất lực. Washington đã không cản trở được nhiều nước trong vùng cắt đứt quan hệ với Đài Loan để « bắt tay » với Trung Quốc. Các chính sách cấm vận, trừng phạt chống Cuba, Venezuela và Nicaragua, gợi nhắc đến học thuyết Monroe, đưa ra vào thế kỷ XIX, theo đó, Hoa Kỳ tự cho quyền làm « cảnh sát » ở khu vực, làm sống lại những hồi ức đau thương về những cuộc can thiệp quân sự của Mỹ, thúc đẩy những nước này rơi vào vòng tay Trung Quốc.

    Ngoài việc mất lòng tin của các nước trong khu vực, đối mặt với các rủi ro về kinh tế, Hoa Kỳ còn có nguy cơ phải đối phó với sự hiện diện quân sự của Trung Quốc trong vùng. Hồi tháng 7/2024, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, dựa vào các hình ảnh vệ tinh, cho rằng Trung Quốc đang có các hoạt động gián điệp ở Cuba. Truyền thông Mỹ năm 2023 còn loan tin Cuba và Trung Quốc đã có một thỏa thuận về việc thiết lập một căn cứ do thám để Trung Quốc thu thập các dữ liệu từ Mỹ. Nghiên cứu của CSIS khẳng định Bắc Kinh có đến 4 cơ sở quân sự tại Cuba.

    Hơn nữa, Trung Quốc còn sở hữu nhiều trạm thu vệ tinh trên mặt đất tại châu Mỹ Latinh, mà nhiều chuyên gia nghi ngờ được sử dụng cho hoạt động dọ thám. Một đài quan sát không gian ở miền nam Achentina là do quân đội Trung Quốc quản lý. Chính quyền Buenos Aires khẳng định các hoạt động của đài chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực dân sự, nhưng nội dung thỏa thuận mà Achentina ký kết với Trung Quốc năm 2014 đã được giữ bí mật. Một nhà ngoại giao châu Âu, xin ẩn danh, giải thích : « Một điều khoản dường như quy định rằng Achentina chỉ có thể sử dụng đài quan sát này 10% thời gian. Đó là một sự nhượng thổ không hơn không kém ! »

    Le Monde ngày 30/06/2023 cho biết, cùng với việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, Trung Quốc cũng tăng cường thắt chặt hơn và đa dạng hóa quan hệ quân sự với các nước Châu Mỹ Latinh, được thiết lập từ những năm 1990. Binh sĩ các nước châu Mỹ Latinh được gởi đến đào tạo ở trường đại học quốc phòng Trung Quốc. Khu vực này tuy mua rất ít vũ khí Trung Quốc, nhưng ông khổng lồ châu Á này đang tìm cách chen chân vào thị trường châu Mỹ Latinh. Bắc Kinh đã từng hối thúc Buenos Aires trang bị tiêm kích JF-17 Thunder, do Trung Quốc và Pakistan sản xuất, hay mua nhiều loại xe bọc thép khác, nhưng bất thành, do vấp phải sự cản trở từ Mỹ.

    Hoa Kỳ tiếp tục các hoạt động quân sự và tình báo tại khu vực gần với đối thủ châu Á của mình. Chiến đấu cơ Mỹ bay trên không phận Biển Đông và thực thi giám sát điện tử, trong khi tầu chiến Mỹ qua lại ở eo biển Đài Loan. Washington bán vũ khí cho Đài Bắc và cử các chuyên viên quân sự đến đảo. Chẳng phải Bắc Kinh cũng đang làm điều tương tự ngay trên chính sân nhà của Washington tại châu Mỹ Latinh ?

    Thu, 14 Nov 2024
  • 126 - Lập trường của chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 về Ukraina và Đài Loan

    Cựu tổng thống Mỹ, ứng viên đảng Cộng Hòa Donald Trump đã giành chiến thắng áp đảo trong cuộc bỏ phiếu ngày 05/11/2024, trở thành tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ. Trở lại Nhà Trắng, Donald Trump sẽ xử lý thế nào các cuộc khủng hoảng địa chính trị hiện nay, từ Ukraina, Cận Đông cho đến Đài Loan ? Donald Trump có thể sẽ bỏ rơi một số đồng minh, hay buộc họ phải « trả phí » để có sự hậu thuẫn từ Mỹ ?

    Nguyên nhân thất bại của Kamala Harris

    Theo kết quả kiểm phiếu được AP cập nhật đến sáng 07/11/2024, lúc 11 giờ, giờ Paris, cựu tổng thống Mỹ Donald Trump đã có được sự ủng hộ của 295 đại cử tri, bỏ xa đối thủ đảng Dân Chủ, phó tổng thống sắp mãn nhiệm Kamala Harris, chỉ được 226 phiếu.

    Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà báo Phạm Trần từ Washington trước hết nhận định về kết quả cuộc bỏ phiếu :

    Nhà báo Phạm Trần : « Kết quả không có gì ngạc nhiên. Thứ nhất, khi tranh cử, Kamala Harris đã được nhiều nữ cử tri hưởng ứng và hứa bỏ phiếu cho bà. Thứ hai là những người di dân, thiểu số. Bởi vì bà Harris là người gốc di dân, thiểu số, rồi lại là người da mầu. Đây là những yếu tố có thể hội đủ số phiếu cử tri.

    Nhưng ngược lại, bà Harris không có được lá phiếu ủng hộ của giới trẻ và đàn ông của nước Mỹ. Những người này đã dồn phiếu cho ông Trump. Trong khi đó giới nữ da trắng, một phần ủng hộ bà Harris nhưng phần lớn vẫn nghiêng về phía đảng Cộng Hòa. Do vậy ông Trump đã có nhiều lợi điểm thắng thế trong cuộc bỏ phiếu vừa qua. »

    Theo hãng tin Reuters, bất chấp những hứa hẹn bảo vệ việc làm cho giới công nhân công đoàn, bà Kamala Harris đã không nhận được sự ủng hộ của Hiệp hội Nghiệp đoàn IBT (International Brotherhood of Teamsters), vốn ủng hộ nhiệt tình đảng Dân Chủ từ năm 1996. Giới lãnh đạo nghiệp đoàn nêu rõ một trong những thất bại của chiến dịch vận động tranh cử của Kamala Harris : Bà không có khả năng thuyết phục tầng lớp cử tri công nhân, vốn dĩ lo lắng về tình trạng lạm phát và tình hình kinh tế.

    Nhưng không chỉ có thế. Theo quan sát nhà báo Phạm Trần, những người bỏ phiếu cho Donald Trump còn ủng hộ ý kiến « Make America Great Again » mà nhà tỷ phú Mỹ không ngừng hô hào từ suốt 8 năm qua.

    Nhà báo Phạm Trần : « Trong chương trình tranh cử, Kamala Harris tuyên bố, thứ nhất, sẽ có các biện pháp hạ giá tất cả các loại nhu yếu phẩm. Thứ hai là giảm thuế. Điểm thứ ba là sẽ nghiên cứu một chính sách di dân. Cuộc bầu cử vừa qua đúng là có những vấn đề về kinh tế, có vấn đề di dân, nhưng thêm vào đó, các cuộc trưng cầu dân ý cho thấy là người dân Mỹ cũng quan tâm đến vấn đề dân chủ, vấn đề sức mạnh của đất nước, và do vậy, những thành phần cử tri đó đã nghiêng về phía ông Trump.

    Kinh nghiệm từ cuộc bầu cử năm 2016, năm ông Trump đắc cử lần đầu, cho thấy ông ấy có chính sách quốc phòng mạnh, có chính sách kinh tế mạnh và muốn bảo vệ quyền lợi của người dân Mỹ, thay vì phân phối tài nguyên của nước Mỹ để cho các nước khác có thể nhờ vào đó làm giàu, ví dụ như Trung Quốc, đối với ông Trump, quốc gia có cùng chung đường lối về vấn đề kinh tế hay phát triển, hay mậu dịch. Do vậy, người dân Mỹ ủng hộ chính sách này. Nếu nói là bảo thủ thì hơi quá đáng, nhưng thực sự người dân Mỹ ủng hộ ý kiến phải làm cho nước Mỹ cường thịnh trước đã, rồi mới lo đến các nước khác. »

    Ukraina : Viễn cảnh bị bỏ rơi hay bị ép nhượng thổ

    Về đối ngoại, trong quá trình vận động tranh cử, Donald Trump từng tuyên bố, « sẽ chấm dứt tất cả các cuộc khủng hoảng quốc tế mà chính quyền hiện tại đã tạo ra, kể cả cuộc chiến tranh khủng khiếp giữa Nga và Ukraina, có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra nếu tôi là tổng thống ». Nhà tỷ phú Mỹ khẳng định rằng ông có khả năng chấm dứt các xung đột trên thế giới chỉ bằng « một cú điện thoại ».

    Trong suốt thời gian vận động tranh cử, Donald Trump không ngừng đả kích sự hậu thuẫn quân sự và tài chính mạnh mẽ mà chính quyền Biden dành cho Ukraina, tính đến hôm nay đã lên đến 85 tỷ euro, theo thống kê từ Viện Kiel của Đức.

    Kiev toát mồ hôi hột khi người đứng liên danh với Donald Trump, J.D. Vance, hồi tháng Chín năm nay, trong một podcast đăng trên Youtube có tựa đề « Shawn Ryan Show » mô tả việc hình thành một vùng « phi quân sự hóa » trên lãnh thổ Ukraina dọc theo đường chiến tuyến, « sẽ được củng cố mạnh mẽ để Nga không thể xâm chiếm Ukraina ». Theo Franceinfo, điều này cũng có thể được hiểu là « hãy để cho Nga kiểm soát các vùng lãnh thổ mà họ đã chiếm được, vào thời điểm đề xuất đàm phán ».

    Ngoài ra, đoạn video của ông Vance khẳng định kế hoạch « hòa bình » của ông Trump còn bao gồm cả việc cấm Ukraina gia nhập NATO hoặc các « thể chế đồng minh khác », theo như yêu cầu từ Vladimir Putin. Và đi xa hơn nữa là Mỹ sẽ đình chỉ hoặc ngừng hoàn toàn viện trợ quân sự. Về hồ sơ này, nhà báo Phạm Trần giải thích thêm :

    Nhà báo Phạm Trần : « Đây là điều đáng quan tâm. Khi tranh cử, Donald Trump đã nói rõ là nếu đắc cử, ông sẽ không tiếp tục viện trợ vũ khí, đạn dược cho Ukraina nữa. Ông nói rằng nước Mỹ không có quyền lợi gì ở Ukraina. Đây là điểm khiến nhiều thành phần ở nước Mỹ, đặc biệt là các nghị sĩ, dân biểu Quốc Hội, nhất là bên phía đảng Dân Chủ, không hài lòng. Bởi vì, dù sao đi nữa, Hoa Kỳ cũng đứng đầu thế giới tự do, đi đầu về bảo vệ nhân quyền và sức mạnh của châu Âu.

    Nếu Donald Trump bỏ rơi Ukraina, thì châu Âu rất lo ngại, bởi vì bên cạnh Ukraina là Ba Lan và nhiều nước khác nữa có nguy cơ bị tổng thống Nga Vladimir Putin tiếp tục xua quân chiếm đóng. Và nếu Mỹ không can thiệp, Mỹ không muốn bảo vệ, thì tình hình thế giới sẽ biến loạn và có nhiều nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh khác ở châu Âu nói riêng và toàn thế giới nói chung.

    Điều đáng quan tâm là liệu ông Trump có thi hành những cam kết trong cuộc vận động tranh cử hay không ? Hay là ông ấy sẽ phải nhượng bộ ? Tôi tin rằng trong trường hợp của Ukraina và về tình hình an ninh của châu Âu cũng như là an ninh ở Trung Đông, các nước châu Phi, thì ông Trump không có khả năng để vượt qua quyền hạn của Quốc Hội, vượt qua ý muốn của người dân, để mà bỏ rơi Ukraina, bởi vì an ninh của châu Âu cũng là an ninh của nước Mỹ. »

    Đài Loan phải trả phí bảo vệ cho Mỹ ?

    Tại châu Á, các nước đồng minh cũng phập phồng lo âu. Mọi cặp mắt đổ dồn vào Đài Loan. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Donald Trump đã làm cho mối quan hệ giữa Washington và Đài Bắc thêm gần gũi, trước sự thất vọng của Bắc Kinh, vốn dĩ xem Đài Loan là một phần lãnh thổ. Franceinfo nhắc lại, vào năm 2017, ngay khi vừa nhậm chức, Donald Trump đã có cuộc nói chuyện với tổng thống Đài Loan lúc bấy giờ là Thái Anh Văn. Cử chỉ chưa từng có này đã gây ra sự cố ngoại giao với Trung Quốc.

    Kể từ đó, Hoa Kỳ là « đồng minh hùng mạnh nhất và là bên cung cấp vũ khí chính » cho hòn đảo. Washington tuyên bố chính sách « mơ hồ chiến lược » : Không công nhận Đài Loan, cũng không ủng hộ ý tưởng độc lập chính thức và phản đối bất kỳ hình thức thống nhất nào bằng vũ lực. Trong năm 2024, Hoa Kỳ còn thông qua gói hỗ trợ quân sự trực tiếp cho Đài Loan.

    Nhưng các phát biểu của Donald Trump khi tranh cử khiến giới quan sát dự đoán có sự thay đổi về quan điểm, vì ông cho rằng « Đài Loan nên trả tiền để Mỹ bảo vệ họ ». Quan hệ Mỹ - Trung dưới nhiệm kỳ hai của Donald Trump sẽ ra sao ? Tình hình eo biển Đài Loan sẽ diễn tiến như thế nào ? Nhà báo Phạm Trần đưa ra một số nhận định :

    Nhà báo Phạm Trần : « Theo kinh nghiệm nhiệm kỳ đầu tiên, Donald Trump rất cứng rắn với các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, ví dụ như hàng giả hay như việc Trung Quốc trợ giá để đánh bại hàng hóa của Mỹ. Nhưng về mặt chính trị, Donald Trump vẫn giữ các mối liên lạc chặt chẽ với chủ tịch Tập Cận Bình nói riêng và các lãnh đạo khác của Trung Quốc nói chung.

    Về vấn đề an ninh châu Á – Thái Bình Dương, lập trường của ông Trump tuy cứng rắn, nhưng ông có những mối quan hệ khá đặc biệt với Bắc Triều Tiên và với Nga. Điều đáng quan tâm ở đây là vai trò của Mỹ trong khu vực : Liệu nước Mỹ của Donald Trump có bảo vệ Đài Loan khi Trung Quốc tấn công hòn đảo này? Đây là điều chưa ai có thể biết được.

    Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử các đời tổng thống Mỹ cho thấy eo biển Đài Loan vẫn do Hoa Kỳ tuần dương hàng ngày và có hạm đội số 7 tại vùng châu Á – Thái Bình Dương luôn giám sát, bảo vệ đảo Đài Loan. Tất cả tầu bè đi lại hay các hạm đội Trung Quốc đi qua eo biển để xuống vùng Biển Đông đều được lực lượng hải quân Hoa Kỳ theo dõi.

    Quả thật, chuyện tương lai không ai biết được sẽ diễn ra như thế nào, và có thể gây nguy hiểm cho tình hình an ninh châu Á – Thái Bình Dương hay không ? Nhưng ông Donald Trump hay bất cứ một vị tổng thống nào cũng phải đặt quyền lợi của nước Mỹ, quyền lợi các đồng minh của Mỹ, đặc biệt là với Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines, lên hàng đầu.

    Thế nên, nỗi lo ông Trump bắt tay với Trung Quốc để cho nước này tự do hoành hành, tự do chiếm các biển đảo của các nước ở vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam với vùng Biển Đông, tôi không tin là sẽ xảy ra ! »

    Báo Pháp Le Figaro ngày 06/11/2024, cho biết trong đêm ngày bỏ phiếu 05/11, lực lượng Không gian Mỹ đã cho bắn thử một tên lửa đạn đạo liên lục địa « Minuteman III », có thể mang đầu đạn hạt nhân từ căn cứ Vendenberg ở bờ Tây Thái Bình Dương nước Mỹ. Vì sao Hoa Kỳ lại chọn đúng ngày bầu cử để thử nghiệm vũ khí là điều khiến giới quan sát thắc mắc.

    Tờ báo Pháp thiên hữu này nhắc lại cuộc thử nghiệm này diễn ra trong bối cảnh Nga vừa xem xét lại học thuyết hạt nhân (26/09/2024), Bắc Triều Tiên cách nay vài ngày bắn thử tên lửa đạn đạo liên lục địa ICBM, cũng như căng thẳng gia tăng nghiêm trọng giữa hai cường quốc hạt nhân tại Trung Đông là Israel và Iran. Một lời cảnh cáo ngầm cho các đối thủ lớn của Mỹ và đồng minh của Mỹ chăng ?

    RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà báo Phạm Trần từ Washington.

    Thu, 07 Nov 2024
  • 125 - Trump hay Harris: Châu Á vẫn là « rường cột » chính sách đối ngoại của Mỹ

    Ngày 05/11/2024, cử tri Mỹ phải phân định ai sẽ là tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ : Ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris hay Donald Trump, ứng viên đảng Cộng Hòa, hiện đang bám gót trong các cuộc thăm dò. Tuy nhiên, bất kể ai là người chiến thắng, Bắc Kinh vẫn sẽ là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Washington. Và trong cuộc đọ sức « dài hơi » này, Đông Nam Á sẽ giữ một vai trò quan trọng.

    Nếu như thế giới, đặc biệt là châu Âu, NATO và Ukraina hồi hộp trông đợi kết quả bầu cử, và nhiều nước hy vọng tránh được sự trở lại với sự « xáo động » và tính chất bất định, đánh dấu nhiệm kỳ Donald Trump, thì tại Trung Quốc, giới lãnh đạo dường như đang chuẩn bị tiếp tục đương đầu các tranh chấp thương mại với Hoa Kỳ, bất kể ai là người thắng cử.

    Tính liên tục của chính sách đối ngoại Mỹ

    Bởi vì, tại Washington, có một sự đồng thuận lưỡng đảng, xem Trung Quốc là mối đe dọa cho thế thống trị của Hoa Kỳ và do vậy, cả hai ứng viên, Kamala Harris hay Donald Trump, đều hòa theo xu hướng chống Trung Quốc trong chính giới Mỹ, đã hứa hẹn cứng rắn hơn với Trung Quốc, nền kinh tế thứ hai trên thế giới và là đối tác thương mại quan trọng của Mỹ.

    Mục tiêu đặt ra cho cả hai ứng viên, là Hoa Kỳ phải « giành chiến thắng » trong điều mà họ xem như là một cuộc cạnh tranh giữa hai đại cường. Theo nhiều nhà quan sát, tương lai thế giới trong nhiều thập niên sắp tới sẽ do quan hệ Mỹ - Trung, mối quan hệ quốc tế quan trọng nhất, định đoạt.

    Nicole Gnesotto, phó chủ tịch Viện Jacques Delors, tại hội thảo mang chủ đề « Hoa Kỳ : Lại bị chao đảo ? », trong khuôn khổ Ngày hội Địa Chính Trị Nantes 2024 (27-28/09/2024) do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược IRIS tổ chức, nhận định, tính chất liên tục trong cuộc đối đầu Mỹ - Trung, là một trong nét đặc trưng của nền ngoại giao Mỹ trong những thập niên gần đây.

    « Năm 2011, Barack Obama là người đầu tiên nói đến xoay trục sang châu Á, người đầu tiên mang đến một ý nghĩa chiến lược cho mối bận tâm hàng đầu về Trung Quốc của Mỹ. Rồi Donald Trump đã mang đến một sắc thái thương mại cho mối ưu tiên hàng đầu này, điểm khởi đầu cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch chống nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc. Tiếp đến, Joe Biden đã biến mối đe dọa này theo chiều hướng công nghệ, với các sắc lệnh được đưa ra năm 2023, cấm các nhà công nghiệp Mỹ chuyển giao hay hợp tác với ngành công nghiệp Trung Quốc trên nhiều hồ sơ nhậy cảm.

    Nhưng tất cả những đời tổng thống này, bất kể là Obama, Trump hay Biden, còn có thêm chút sắc thái ý thức hệ, nghĩa là, một cuộc đấu tranh lớn giữa một bên là các nền dân chủ và bên kia là các chế độ chuyên chế độc tài. Do vậy, dù là Trump hay Harris có thắng cử đi chăng nữa, nỗi ám ảnh mối đe dọa Trung Quốc vẫn sẽ là một trong các điểm quan trọng, thậm chí là những rường cột cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Đây sẽ là một vấn đề cho châu Âu. »

    Châu Á – Ưu tiên số một, châu Âu – vùng ngoại vi

    Kể từ giờ, Trung Quốc được chính giới Mỹ nhất trí phải đối xử như như là địch thủ, đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ. Những biện pháp chính quyền Trump đưa ra để chống Trung Quốc đã được người kế nhiệm Biden duy trì, từ việc áp thuế nhập khẩu, kiểm soát chuyển giao công nghệ cao, cho đến các biện pháp trừng phạt vi phạm nhân quyền nhắm vào Bắc Kinh.

    Theo nhiều chuyên gia được AFP trích dẫn, Bắc Kinh không trông đợi một sự đảo hướng nào từ phía Donald Trump lẫn Kamala Harris. Kinh tế gia Adam Slater tại Oxford Economics, trong một ghi chú, cảnh báo rằng, « việc tăng cường chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch sau cuộc bầu cử Mỹ có nguy cơ dẫn đến việc tái cơ cấu lớn nền thương mại toàn cầu. Chính sách thuế quan của Donald Trump có khả năng làm suy giảm trao đổi thương mại Trung – Mỹ đến 70% và có thể gây ra sự biến mất hoặc tái định hướng hàng trăm tỷ đô la trao đổi thương mại. »

    Nhìn chung châu Á vẫn sẽ là ưu tiên hàng đầu cả trên bình diện thương mại lẫn về mặt chiến lược trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong buổi hội thảo ở Nantes, cựu đại sứ Pháp ở Washington và Tel Aviv, ông Gerard Araud, lưu ý rằng, Hoa Kỳ đang « rón rén » rời khỏi châu Âu và Ukraina là một rào cản, làm Mỹ bị phân tán khỏi điều cốt lõi.

    « Đối với Hoa Kỳ, điều cốt lõi được tóm gọn trong ba từ : Trung Quốc, Trung Quốc và Trung Quốc. Người Mỹ cho rằng châu Á mới là nơi mang đến tăng trưởng. Khi châu Âu có mức tăng trưởng 2% họ đã hô hào phấn khởi, nhưng khi Trung Quốc đạt 5% thì họ nói rằng Trung Quốc gặp khủng hoảng.

    Tuy nhiên, đối với nhiều người Mỹ, có một thực tế hiển nhiên là tương lai thế giới sẽ được định đoạt trong quãng không gian nằm giữa New Delhi và Los Angeles. Đối với họ, châu Âu đang dần trở thành một vùng ngoại vi của thế giới. Hoa Kỳ rất thực dụng, cuộc chiến xâm lược Ukraina tuy khiến họ phải bận tâm, nhưng như đã nói, Mỹ không ủng hộ và không sẵn sàng tham chiến tại Ukraina ».

    Vây hãm và Đối thoại

    Trong bối cảnh có sự dịch chuyển kinh tế và địa chính trị sang châu Á, Hoa Kỳ dưới thời Biden đã thiết lập nhiều mối quan hệ đồng minh và đối tác chiến lược. Cuộc đối đầu trực diện hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc gợi nhắc lại thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, đọ sức giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong những năm 1980, 1990. Hai siêu cường tương lai của thế giới có sẽ xác định một mô hình sống chung ? Hay hai đại cường sẽ lao vào một cuộc chiến đầy rủi ro ?

    Cựu đại sứ Pháp ở Mỹ Gerard Araud lưu ý rằng trong lĩnh vực địa chính trị, khi phải đối diện với kiểu đối đầu như hiện nay, người ta luôn nói đến hai vế : Ngăn chặn và Đối thoại. Chính quyền Biden cho đến lúc này đã phần nào thành công trong việc kềm hãm khi thiết lập nhiều mối quan hệ đồng minh với nhiều nước trong khu vực như Bộ Tứ - QUAD quy tụ bốn nước Úc, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, hay liên minh quân sự AUKUS Anh, Úc, Mỹ,…

    « Rồi còn có thỏa thuận đối tác chiến lược giữa Mỹ và Philippines, giữa Mỹ và Việt Nam. Khi tổng thống Mỹ mời đồng nhiệm Hàn Quốc và thủ tướng Nhật Bản đến Camp David, trong nhãn quan Trung Quốc, cử chỉ này có một ý nghĩa to lớn. Nếu nhìn từ Bắc Kinh, quý vị sẽ thấy rõ ở phía đối diện hình thành một chuỗi quan hệ đồng minh và liên minh chống Trung Quốc một cách rõ ràng và rất mạnh mẽ.

    Trong vụ rắc rối tầu ngầm Úc, với Pháp chỉ là viên đạn lạc, là nạn nhân liên đới. Đối với Mỹ, đây là cách thức để cung cấp cho Úc các phương tiện để có thể tiếp cận bờ biển Trung Quốc bằng tầu ngầm hạt nhân trong khi những loại tầu ngầm cổ điển không thể có được tầm với đó. Rõ ràng là Mỹ đang tìm cách ngăn chặn Trung Quốc. Cho nên thật dễ hiểu vì sao Trung Quốc phải tăng ngân sách quốc phòng ».

    Cũng theo ông Gerard Araud, vế thứ hai – cuộc « Đối thoại chính trị » chỉ mới bắt đầu. Nền ngoại giao Mỹ vốn dĩ kín tiếng, nhưng các cuộc tiếp xúc bí mật đã được tiến hành giữa Jack Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ và người đồng cấp Trung Quốc. Mục tiêu là để hai nước xác định các lằn ranh đỏ nhằm tránh những tính toán sai lầm:

    « Lằn ranh đỏ lớn, tính toán sai lầm lớn có thể xảy ra là Đài Loan. Đối với Trung Quốc, Đài Loan là lằn ranh đỏ tuyệt đối. Trung Quốc biết rõ là chiến tranh sẽ là một thảm họa, nhưng họ cũng sẽ không để Đài Loan giành độc lập bằng bất cứ giá nào. Nhưng đồng thời họ không nên đánh giá sai lầm quyết tâm của Mỹ. Nhưng tôi có lẽ sẽ kết luận bằng câu trả lời rằng nếu Trump được hỏi"ông nghĩ gì về Đài Loan ?"Câu trả lời duy nhất của ông ấy là"Đài Loan là đối thủ cạnh tranh với ngành công nghiệp Mỹ". Nếu tôi là Bắc Kinh, tôi sẽ nghĩ đèn đỏ đã trở thành đèn mầu cam ! »

    Đông Nam Á, Biển Đông – Sự đồng thuận của lưỡng đảng

    Đây cũng chính là điều khiến nhiều lãnh đạo châu Á lo lắng. Với chủ trương « Nước Mỹ trên hết », « Donald Trump nếu tái đắc cử sẽ có một cách tiếp cận địa chính trị thế giới hoàn toàn không nhất quán giữa các khu vực, tùy thuộc vào những lợi ích do chính ông xác định và thường bị nhầm lẫn với lợi ích của các công ty của Trump », theo như nhận định của Marie - Cecile Naves, chuyên gia về Mỹ, giám đốc nghiên cứu tại IRIS.

    Bầu cử Mỹ diễn ra vào thời điểm căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines gia tăng mạnh mẽ do những tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Tầm nhìn về quan hệ quốc tế mang tính « giao dịch » của Donald Trump cũng như sự kín kẽ của bà Kamala Harris về chính sách đối ngoại làm dấy lên nhiều nghi vấn về những cam kết của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác trong vùng Đông Nam Á, khu vực mà Mỹ cũng rất muốn tranh thủ trong cuộc cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc, theo nhận định từ nhiều nhà quan sát.

    Tuy nhiên, theo Andrew Scobell, chuyên gia về Trung Quốc, Viện Hòa Bình Mỹ,được South China Morning Post trích dẫn, « quan điểm đồng thuận lưỡng đảng ở Washington là Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn nhiều ở Biển Đông và Hoa Kỳ phải chống lại các hành động khiêu khích của Trung Quốc, ủng hộ các đồng minh và đối tác ở vùng biển Đông Nam Á ».

    Đối với Andreyka Natalegawa, cộng tác viên cho Chương  trình Đông Nam Á, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS tại Washington, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng sâu sắc giữa Mỹ và Trung Quốc, Đông Nam Á sẽ đóng một vai trò quan trọng. Do vậy, « bất kể ai thắng cử tháng 11 này, chính quyền tiếp theo phải đối mặt với một số ưu tiên rõ ràng trong năm tới: củng cố mối quan hệ với các đồng minh và đối tác quan trọng, quản lý căng thẳng ở Biển Đông và đưa ra kế hoạch kinh tế tích cực cho khu vực. »

    Nhìn chung, giới quan sát hầu hết có chung một nhận định, sẽ chẳng có nhiều khác biệt trong chính sách đối ngoại giữa Kamala Harris và Donald Trump. Có khác chăng là phương thức thực hiện, giữa « một chính quyền Harris sử dụng con dao mổ » và « một chính quyền Donald Trump dùng búa tạ », như hình ảnh ví von của nhà nghiên cứu Thibault Denamiel, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS, Washington với hãng tin Pháp AFP.

    Thu, 31 Oct 2024
Mostrar mais episódios